Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Từ chuyện Trại trở về chuyện Hồng Bàng

5xu
Trong chỉ thị của Ban Bí Thư do Trường-chinh ký ngày 5 tháng 12 năm 1953 về việc giảm tô vùng “dân tộc thiểu số ở lẫn với người Kinh” có nhắc đến người Trại.
“Ngoài người Kinh, ở các xã trên đây còn có các dân tộc Nùng, Thổ, Trại, Mán, Hoa kiều, có xã có một số đồng bào Thái Sơn La tản cư đến. Giữa người Kinh và dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, hoặc nhiều hoặc ít, đều có xích mích và mâu thuẫn”. Các xã nói đến ở đây là 40 xã ở Thái Nguyên và Bắc Giang.
Đọc giật mình. Vì người Trại (Thanh Nghệ) sao lại ở vùng này. Sau mới hiểu ra người Trại ở đây là chỉ người Sán Dìu (Sơn Dao Nhân), một nhóm thiểu số thuộc nhóm Hoa (nói và viết tiếng Hoa). Người Sán Dìu còn được gọi là người Trại hay người Trại đất. Có thể là vì họ ở không ở nhà sàn mà ở nhà (vách) đất mái tranh, trồng lúa và ăn cơm ăn cháo.
Trong Đại nam quốc sử diễn ca (tên đã thấy tác phẩm thuộc thời nhà Nguyễn) có câu sau nói về thi cử thời nhà Trần:
“Kẻ kinh, người trại cũng là tài danh
Lại thi thái-học chư-sinh,
Lại thi tam-giáo chia rành ba khoa”.
Người Trại ở đây chỉ dân Thanh Nghệ.

Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, đoạn nói về thi cử (1256) thời Trần Thái Tông có đoạn: “Hồi quốc sơ, cử người chưa phân kinh trại, người đỗ đầu ban cho danh hiệu Trạng nguyên. Đến nay chia Thanh Hóa, Nghệ An làm trại, cho nên có phân biệt kinh trại”.
Người Kinh trong câu trên là để chỉ dân sống ở vùng đất thấp gần các trung tâm văn minh (đồng bằng và các thung lũng sông Hồng, sông Mã). Người Trại là chỉ người vùng cao, mà không phải là người dân tộc, có thể là vì họ ở nhà vách mái lá và ăn cơm như người Kinh, nhưng lại nói ngôn ngữ khác (tiếng địa phương khác).
Các trung tâm văn minh này, sau chính là Đông Kinh (Hà Nội), Tây Đô (Thanh Hóa). Tiếng địa phương của người Trại chính là thứ tiếng (cộng với văn hóa ứng xử, sinh hoạt) được cho là tiếng mà Lê Lợi sử dụng. Nó khá thô lậu. Thô lậu đến mức khi Nguyên Trãi và Trần Nguyên Hãn bỏ người Kinh (và kinh đô) để lên chiến khu (Thanh Hóa) tìm gặp Lê Lợi xin đầu quân, mà bị sốc văn hóa tí nữa thì bỏ về (Lê Lợi nói khó nghe và hành xử lỗ mãng quá). (Có thể từ “trại” trong “nói trại đi” liên quan mật thiết đến chữ Trại này).
Nhưng chuyện này là chuyện về sau, lúc hết thời nhà Trần, khi giặc Minh xâm chiếm Việt Nam, và Lê Lợi lập chiến khu để trường kỳ kháng chiến. Sau đó đúng là nhất định thắng lợi, giải giáp quân Minh, tiếp quản thủ đô, rồi giết luôn hai công thần. Trước là ép tể tướng kiêm đại tướng Trần Nguyên Hãn nhảy xuống sông tự vẫn, sau là chu di tam tộc Nguyễn Trãi. Cả hai đều là chí sĩ và là quý tộc người Kinh.
Quay lại chuyện Kinh Trại. Sao thời đầu nhà Trần chưa chia Kinh – Trại, mà sau lại chia? Có thể là do thời đầu nhà Trần lúc đầu sùng Phật, sau du nhập Nho, theo nhà Lý mà mở Quốc Tử Viện, dạy dỗ con cháu giới thượng lưu. Ngôn ngữ biến đổi theo. Mà phân biệt tiếng (âm sắc, từ vựng) không biết là vì lí do gì lại là chuyện rất quan trọng với người Việt. “Chửi cha không bằng pha tiếng”, hay “Nôm na mách qué”, hoặc “miền đù” là các thành ngữ, cách nói miệt thị tiếng địa phương khác ngoài tiếng được nói ở kinh thành (sau là tiếng Kẻ Chợ, hay tiếng Hà Nội).
Nhà Trần, trong triều và trong giới quý tộc, nói cùng lúc hai ngôn ngữ (nói chữ, chắc là tiếng Hoa) và nói phương ngữ (tiếng Nôm, tức tiếng địa phương, tức là tiếng Kinh lúc bấy giờ). Khi giặc Minh xâm lược Việt Nam, người ta mới ngỡ ngàng nhận ra là tiếng Hoa mà người Minh nói, có cách phát âm rất khác tiếng Hoa mà người Việt vẫn phát âm (theo kiểu nhà Đường, là nhà có ảnh hưởng sâu đậm đến An Nam thời bắc thuộc). Trí thức thời bị giặc Minh xâm lược, phản ứng rất yếu ớt (chống đối) bằng cách vẫn phát âm theo kiểu cũ.
Về việc nhà Trần nói hai thứ tiếng, ví dụ để dễ hiểu, rất giống Ngô Đình Nhu nói tiếng Pháp trong gia đình và trong phủ tổng thống, nói tiếng miền trung với người ngoài. Lúc còn sùng Phật, nhà Trần chưa cần phân biệt. Lúc Nho hóa cao hơn, bắt đầu phân kẻ kinh kì với kẻ ở quê, không chỉ ở địa lý mà cả tiếng nói, văn hóa. Người Mường lúc đó nói tiếng giống tiếng Việt của người Kinh, nhưng vẫn không bị gọi là Trại. Mà người Trại làm nhà trồng lúa nấu cơm giống người Kinh thì lại bị phân biệt là người Trại. Nhưng người Trại vẫn được thi cử: “Lấy đỗ thái học sinh 43 người (kinh 42 người, trại 1 người), xuất thân có thứ bậc khác nhau”.
Có lẽ từ thời Khúc Thừa Dụ ly khai, rồi đưa Việt Nam thành nước độc lập, qua tới nhà Trần thì tiếng Việt bình dân (của người dân, hay có thể gọi là tiếng Kinh) không có nhiều thay đổi. Kể từ nhà Lê, rồi đến lúc Trịnh Nguyễn phân tranh, có lẽ tiếng Việt mới biến đổi nhiều. Nhất là do 30 năm binh biến nội chiến trận mạc, và trước đó lài người Kinh đi mở cõi, rồi sáp nhập Chiêm Thành (nay Hà Tĩnh Nghệ An vẫn còn những vùng nói tiếng Việt nhưng âm sắc và từ vựng là gốc gác thực chất là tiếng Chàm). Cho đến khi Minh Mạng lên ngôi vua, ông ấy cưỡng bức cả nước dùng tiếng Việt (183x), thì tiếng Việt mới dần định hình và là ngôn ngữ chính thức. Thậm chí năm 1955, tổng thống VNCH lúc đó là Ngô Đình Diệm còn cưỡng bức người Thượng (gọi chung các dân tộc cao nguyên) đổi tên, đổi địa danh theo tiếng Kinh (Blao, nghĩa là Trầu Cau, thành Bảo Lộc).
Như vậy kể từ thời nhà Trần bắt đầu có khái niệm người Kinh. Khái niệm này tồn tại chính thức cho đến năm 1953 (như trích dẫn văn bản ở trên). Đến năm 1956, hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhắc đến Dân tộc Việt Nam: “Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo”.
Trước đó, hiến pháp 1946 của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không nói gì đến dân tộc Việt Nam mà nói đến nhân dân Việt Nam: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Đến hiến pháp 1959 của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì nói đến dân tộc Việt Nam: “Dân tộc Việt Nam trải qua mấy nghìn năm lịch sử là một dân tộc lao động cần cù luôn luôn anh dũng đấu tranh xây dựng đất nước và giữ gìn độc lập của Tổ quốc”.
Do người Kinh/Việt gốc gác mù mờ, dở dăng dở đèn, nên nhân đây có thể định nghĩa đơn giản ai nói tiếng Việt sẽ là người Việt. Chỗ nào người Việt sống, từ hình thành đất Việt.
Có một sự lạ ở đây, là ở rất nhiều nơi, thổ dân sau một thời gian bị đô hộ, thì nói và viết thứ tiếng của dân đô hộ. Như người Brazil nói tiếng Bồ, Argentina nói tiếng Tây Ban Nha. Thế mà những dân cư, sau này là người Kinh, ở đồng bằng sông Hồng, bị Tàu đô hộ cả ngàn năm, mà vẫn giữ được ngữ pháp là Mon-Khmer.
Đặc điểm của Mon – Khmer đại khái như sau: cú pháp xuôi (chủ ngữ vị ngữ, danh từ tính từ), từ láy làm giảm nghĩa (đo đỏ, âm ấm), ngữ âm có các thanh (tone: high, low, high rising) tương ứng với không dấu, dấu huyền và dấu sắc.
Các tộc người Mon-Khmer ngày xưa đi biển, lúc đó mực nước biển còn cao, gần tới Mê Linh bây giờ, để vào đồng bằng sông Hồng và vàp miền trung Việt Nam bây giờ. Với các tộc vào miền trung, do bị người Chàm đánh, đã chạy lên cao nguyên và ở đó đến tận ngày nay (trở thành Thượng theo cách gọi của người miền nam, hay người Mọi theo cách gọi thực dân). Với các tộc vào vùng đất Mê Linh, một số ở lại thành nước Lạc, còn lại chạy qua Lào hiện tàn tích là người Khơ Mú.
Dấu vết của những sự kiện này còn lại như sau.
+ Người Thượng gọi mình là Con Kau, tức con người. Chữ Con giờ là một từ rất oách trong tiếng Việt. Thậm chí ở Hải Phòng, cái gì họ cũng gọi bằng con. Con iPhone, con Mẹc.
+ Zôn là chồng, giờ miền trung vẫn còn từ này. Brao thành Liền Bà, X-Lác là Lá (cây), Rường, Cột/Cọc, Kèo, …
+ Trống Đồng có hoa văn toàn người đi biển, chim và cá sấu, cóc.
+ Các tộc này thờ chim, dấu vết còn ở cao nguyên là trong luật tục còn các con chim xử án (phân biệt đúng sai). Chim xử án trong âm dân tộc Thượng là Mơ-c-ling, ở đồng bằng sông Hồng biến thành Mê Linh, còn âm khác là Mơ-c-lang, sau biến thành Văn Lang. Hai con chim này, theo người Tây Nguyên hiện nay, thì là con Chích Chòe. Nếu vậy thì bài con Chim Lạc là chim gì sẽ hơi sai một chút, còn về cơ bản vẫn đúng hehe.
+ Người Khơ Mú, theo sử miệng của họ, là dân tộc vĩ đại, đàn ông anh dũng, đàn bà cực đẹp, nô lệ, voi ngựa rất nhiều, âm nhạc chiến đấu hung tráng. Họ được cho là dân tộc làm ra cánh đồng Chum ở Lào.
+ Vật tổ của họ là một con thủy quái, họ gọi là Pru-zông, chính là con cá sấu (thuồng luồng), sau biến âm ra là Rồng. Con Rồng (cháu tiên) rất có thể là tiếng vọng xa xưa của tổ tiên lộn về thời vua Thục Phán (sẽ nói dưới đây). Rồng, sau này thành con Giao (long). Người Tàu thời Tần gọi người đồng bằng sông Hồng (tức nước cổ Lạc) là Giao Nhân, sau thành địa danh hành chính Giao Chỉ.
+ Cóc liên quan đến gọi mưa, biểu hiện của nông nghiệp trồng lúa. Với cái gậy đào đất tiếng cổ âm vùng nam Á là Lak, sau biến âm thành Lạc (ruộng lạc, lạc điền, hoặc lạc hầu lạc tướng). Chữ Lak cũng để chỉ sinh thực khí (tín ngưỡng) đàn ông. Nếu Lạc mà từ Lak, thì bài Vua Hùng tên thật là gì sẽ bị sai khá nhiều.
+ Tiếng của tộc này gọi trống đồng, một dụng cụ thể hiện quyền lực, là Bùng hoặc cũng gọi là Kông Bang, sau biến âm thành Hùng và Hồng Bàng ở trong ngữ âm người dân Mê Linh và châu thổ sông Hồng. Nếu nhận định này đúng, thì nhận định ở bài Vua Hùng tên thật là gì lại càng sai. Nhân đây, khi Phùng Hưng nổi dậy, xưng bố-bua và lúc đó từ vựng mới có từ mới là từ Vua(biến âm từ bua), tương đương với từ Vương, vốn đã có trước đó khi dân châu thổ sông Hồng dùng để gọi Sĩ Nhiếp. Nhân đây tiếp phát nữa, các anh hùng dân gian đều là được gọi là ông. Ông Dóng, ông Đùng, ông Trọng, ông Cụt, ông Dài. Rất gần đây, do ảnh hưởng của phong thánh trong công giáo, mới có Thánh Dóng/Gióng (dù chữ Thánh đi qua Nho giáo vào ta khá lâu, ví dụ nội thánh ngoại vương). Vậy ta nên gọi ông Giáp hay thánh Giáp?
+ Tộc này có các lễ hội tín ngưỡng phồn thực, nghi thức giống các lễ hội phồn thực ở làng miền bắc, đến trước cách mạng tháng 8 vẫn còn. Đặc biệt nhất là lễ hội Đụ Đị ở Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ).
+ Hát Xoan Phú Thọ, vốn được coi là dân vũ và dân ca cổ còn sót lại từ thời vua Hùng, rất giống hát Tơm (giao duyên) và hát Kưn-chơ (nghi lễ) của người Khơ Mú ở Yên Bái hiện nay. Bài hát đỉnh cao của hát Xoan là Mó Cá (hát và múa) rất giống hát Múa cá lượn (“Tẹ cạ grang) của người Khơ Mú.
+ Tộc này theo mẫu hệ. Có thể nói đến Trưng và Trắc vẫn là mẫu hệ, là nữ hoàng. Thậm chí “vua Hùng” có lẽ là các vua bà chứ không phải vua ông. Nên có thể Sơn Tinh và Thủy Tinh là cuộc chiến để lấy được vua bà chứ không phải lấy con gái vua. Đến Giao Châu thuộc Đông Ngô thời tam quốc, sử tàu vẫn ghi: “Dân chúng huyện Mê Linh và quận Cửu Chân có một tục lạ là khi người anh chết thì người em phải lấy người chị dâu góa”. Trang sức là các khuyên tai rất to, va chạm có tiếng kêu, Taylor giải thích là để đêm đêm phụ nữ Giao Châu di chuyển có tiếng kêu, không phối giống nhầm qua nhà hàng xóm. Khuyên tai to, đến bây giờ đồng bào Tây Nguyên vẫn sử dụng.
+ Tộc này ăn trầu, dùng trầu để mời khách và dùng trong đám cưới, tục này đến giờ vẫn còn ở miền bắc. Tương tự là các tục răng đen và xăm mình.
Đấy là nước Lạc của các vua (bà) Lạc. Lúc này chưa có chữ Việt ghép vào. Lạc Việt là sản phẩm của tuyên truyền, sẽ giải thích ngay dưới đây.
Mười tám (18) đời vua Hùng có thể hiểu là: các vua bà sinh con gái và truyền ngôi liên tục cho đến lúc một vua bà không sinh được con gái mà chỉ sinh ra toàn con trai, lúc đó được coi là kết thúc một đời vua và nhảy qua đời tiếp theo.
Ở tận cùng biên giới phía nam của nước Tần, có bộ tộc chống Tần kiên cường. Chống không được, họ di dân xuống phía nam, và đến đồng bằng sông Hồng thì dừng lại. Bộ tộc này Taylor viết là Ou, tiếng Việt là Âu. Chính là dân Âu Việt. Thủ lĩnh là Thục Phán. Người Âu theo phụ hệ, ở lại và kết hợp với người Lạc, thành Âu Lạc.
Người Âu và người Lạc đều đóng khố cởi trần cắt tóc ngắn và đi biển rất giỏi.
Để tuyên truyền, họ cần một câu chuyện, kiểu Lê Văn Tám, họ bịa ra Âu Cơ và Lạc Long Quân. Lạc là từ chữ Lak, ghép với Long là con Rồng để thành Lạc Long. Cơ là bàn đá, để nhớ vọng về bàn thờ đá của dân Âu Việt, nay vẫn còn được thờ cúng ở Ninh Ba, Chiết Giang, được ghép vào Âu để thành Âu Cơ. Qua đó kết hợp được hai bộ tộc, chuyển dần từ mẫu hệ qua phụ hệ, để Thục Phán lên đứng đầu. Tuy nhiên, sự kình địch của hai tộc còn mãi đến thế kỷ thứ 10 sau CN, khi người Giao (châu) và người Phong (châu) vẫn hiềm khích và không cộng tác khi chống lại triều đình phương Bắc.
Trong quá trình tuyên truyền này, các tên riêng Hồng Bàng, Hùng, Văn Lang, Mê Linh, đã được giữ lại.
Sau khi tuyên truyền thành công, Lạc trở thành Âu Lạc do Âu Việt và Lạc Việt hợp thành. Vua bà trở thành vua ông, Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nữ thái tử, biến đổi trở thành tranh công chúa rất tầm thường. Cái ghen Sơn Tinh Thủy Tinh, phải là cái ghen tranh đại gia, ở đây là vua bà rất trẻ đẹp và quyền lực, mới là có lý.
Tuy đã có chuyển hóa qua phụ hệ, nhưng tàn tích mẫu hệ vẫn còn, Thục An Dương Vương cho Trọng Thủy ở rể, nên Âu Lạc chống Tần thành công mà rơi vào tay Triệu Đà. Nước Nam Việt của Triệu Đà nằm ở đồng bằng Sông Hồng tới Sông Mã bây giờ. Đây là cơ sở nguyên thủy về tâm lý để sau này có sự phân biệt người Kinh và người Trại.
Do loạn lạc ở bên Tàu, các quý tộc và tướng lĩnh phương bắc đào tẩu về phương nam, trong suốt rất nhiều năm sau thời Trọng Thủy. Họ định cư ở đồng bằng sông Hồng, tập trung cao độ ở Luy Lâu, biến nơi này thành trung tâm văn hóa, giao thương và tôn giáo giữa Ấn và Trung Hoa. Ngôn ngữ bắt đầu pha tạp, cốt lõi là Mon Khme và từ vựng vay mượn từ tiếng Hán. Do người Mường ở rất gần, nhưng ít thu nhập người hán vào, nên không bị hỗn chủng, vẫn nói tiếng Mường, là tiếng được coi là thứ tiếng chị-em của tiếng Việt, hay chính là tiếng Việt cổ.
Thứ tiếng địa phương pha tạp này, sau trở thành tiếng Nôm, trái với tiếng/chữ nho của tri thức, bắt đầu từ nhà Trần là rõ nét.
Sau đó bắt đầu phân định Kinh-Trại như đã nói ở trên.
Còn người Âu Lạc cổ, có một bộ phận di dân qua Hải Nam, nay họ là dòng họ Lê ở đó, phong tục của họ, người ta cho rằng, rất giống người ở đồng bằng sông Hồng.
Câu chuyện cổ sử hôm nay đến đây là hết. Chúng ta đã biết được:
+ Nguồn gốc của tên gọi Văn Lang, Mê Linh, Hồng Bàng, Vua Hùng.
+ Mười tám đời vua Hùng là những đời nào.
+ Nguồn gốc của chữ Lạc, chữ Âu, và Âu Lạc.
+ Nguồn gốc của phân biệt người Kinh với các người khác.
+ Nguồn gốc của truyền thuyết Âu Cơ Lạc Long Quân

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"