Theo blog Nguyễn Văn Dũng
Lời giới thiệu: Trong thời điểm
cuối năm 2011, tôi có một người bạn (mà tôi hay gọi là chị) đi du lịch
qua Nhật bản, tiện thể tôi nhờ chị ấy mua hộ tôi “tuyển tập Phan Bội
Châu”. Ngày đó tôi vẫn thích Phan Bội Châu bởi ông là một trong những
Chí Sỹ đã học tập tại nhật, là người dấn thân cho công cuộc phục hưng
đất nước. Tôi cũng đọc qua nhiều tác phẩm như “Ngục Trung Thư”, “Việt
Nam Vong Quốc Sử” và một số tác phẩm thơ như “Hải Ngoại Huyết Thư”... do
đó để hiểu về ông hơn, tôi muốn đọc hết tác phẩm nên đã nhờ mua sách.
Chị ấy đến cửa hàng sách và có hỏi sách cho tôi, tuy nhiên sách về Phan
Bội Châu thì không có, chỉ có sách của Phan Châu Trinh “mà chỉ còn duy
nhất một bộ thôi, em không mua nhanh thì người ta bán mất đấy” chị ấy
nhắn tin cho tôi như vậy. Không do dự, tôi liền nhờ chị ấy mua giúp, và
có thể nói là một cơ duyên giúp tôi “gặp” Phan Châu Trinh và hiểu rõ
ràng hơn về tư tưởng của Ông.
Tôi đọc ngấu nghiến hết 3 tập của PCT trong khoảng một tháng trời,
đọc đi đọc lại nhiều lần những bài tôi thấy hay, những bài đọng lại
trong tôi nhiều cảm xúc. Nhiều bài hay đến mức tôi phải ngồi đánh máy và
tôi nghĩ rằng sẽ có dịp nào đó mình giới thiệu nó với "bạn bè mạng”,
bởi tất cả các bài viết của PCT tuy đã 100 tuổi nhưng tôi thấy vẫn còn
tính thời sự hiện nay.
Bài Hợp Quần Doanh Sinh Thuyết dưới đây là một ví dụ. Trong bài viết
PCT lên án sự lười nhác của dân An Nam (VN) “học không hay, cày chẳng
biết”, chỉ giỏi thói “gian manh, lừa lọc”, Còn đối với những kẻ “biết
đọc sách” thì chưa ai “viết được một quyển sách, đăng được một tờ báo,
để gọi là lay tỉnh người nước ta trong một phần muôn”.
Rất hy vọng bài viết của ông dưới đây sẽ làm lay động tâm chí, tiếp
thêm sức mạnh cho “ai đó”, vì đất nước mà hãy ra sức học tập.
Phan Chu Trinh - Hợp Quần Doanh Sinh Thuyết
Mở bản họa đồ của hai nửa địa cầu, xem sử dân tộc trong năm mảnh Đại
Châu, mà nhìn rộng ra, hơn hai mươi triệu loài người, hàm răng đội tóc,
vuông chân tròn đầu, hỏi xem có nước nào: lập Quốc ở trước mặt đất hơn
hai nghìn năm, tụ Bắc chí Nam, nào ven bể nào đất liền hơn hai nghìn
dặm, năm loại kim khắp đất, năm trăm giống thóc đầy đồng, nào rừng tre
nào miễu gỗ, nào muối mắm chăn tằm, cất chân tìm là được đủ ăn no bụng.
Những kẻ bước chân đến nước mình, kiếm ăn đến xứ mình, đều lưng vốn gấp
nghìn, hàng bày đủ mặt, mà cái ông chủ ngồi ôm cái non sông gấm vóc
đó,cứ lì lì, lười chân biếng tay, bịt tai nhắm mắt học không hay, cày
không biết, công chẳng thiết thương chẳng cần, mùa được mà gào đói, nằm
ấm mà than rét; trừ cách cúi đầu quỳ gót, khóc lóc van xin người ngoài,
không còn có một nghề gì, một nghiệp gì để tụ độ lấy thân cả, hẹp đất
chật trời, không còn gì là thú sống, ốm hen hoi hả, sớm chẳng chắc
chiều, như người nước ta vậy không? Chắc hẳn là không có...
Hỏi xem có giống người nào: quây quần hơn hai nghìn vạn cùng sinh một
đất, cùng bơi một dòng, trong ngoài cùng một tục truyền, Nam Bắc cùng
một thứ tiếng; khoe khoang nhau bằng lễ nghi văn hiến, xưng hô nhau bằng
chú bác anh em; thế mà đãi giống khác, tiếp người ngoài thì vâng theo
chiều chuộng, chỉ sợ không chu; đến như cùng giống cùng nói, lại nỡ coi
như quân thù, lạt như nước lã; ngã chẳng đau xót, mưu mẹo lừa nhau;
không có một chút nào là tình liên lạc, không có một mảy nào là bụng
thương yêu; không có cái đoàn thể bền chặt nào là đông quá ba người,
không có một hội xã lợi ích nào là vốn hơn trăm bạc; chùa Phật điện
Thần, vàng son rực rỡ; tiệc ca chiếu rượu, mâm chén ngổn ngang; ném món
tiền nghìn lạng để cầu một chức quan, phá nghiệp nhà bậc chung để lấy
một tên đỗ; thế mà nói đến chuyện lập hội buôn mở trường học, dựng xưởng
thợ, khẩn đồn điền thì thu tay đứng nhìn, một cái lông không muốn mất;
lợi bằng cái tóc thì so kè, họa bằng cái núi thì không nghĩ; như người
nước ta ấy không? chắc hẳn là không có...
Than ôi! Lấy sợi tóc mành mà buộc nặng ngàn cân, hơi xểnh cửa sinh là
lâm vào đất chết; ruổi cho ma, nói cái tình thương yêu đây đấy, bỏ cái
nhầm gián cách nọ kia; hợp sông làm bể, giùm cây nên rừng; phàm việc
sống phải nhớ, trừ ra chết mới bỏ; mưu sống như thế còn sợ không toàn;
huống hồ lại họp một bọn vô số những hàng người cổ xưa, không học thức,
không lý tưởng, không nghề nghiệp không công đức, mà cho ra chống chọi
trong giữa chừng mạnh được yếu thua, không sống mống chết này, ta không
biết trông mong gì chẳng đem lòng lo sợ.
Ấy vì thế nên những người có biết, phải khóc máu sôi tim, mỏi mồm
khan tiếng, mà ngay ngáy lo cho đồng bào ta trong nước sau này. Bài “hợp
quần doanh sinh” của ông Mai Sơn có lẽ cũng có ý ấy chăng? Cũng có chí
ấy chăng? Ông là một người có tiếng ở bắc kỳ nay lại đem sức theo đòi
học mới; bể dâu biến cải, từng trải đã nhiều; nấn ná bấy lâu, ta biết
rằng không có thể cứ nít thít mà nằm yên được, muốn ra tay tổ chức mtộ
công cuộc cho xã hội mà trước hết viết bài này đ ểhỏi người đời; ngẫm
nghĩ ý trong bài thì chẳng qua là lấy họp đoàn thể, mở thực nghiệp là
cái nghĩa thứ nhất trong lúc mở màn.
Song lại sợ dân đức dân trí nước mình còn chưa đủ nói chuyện ấy
chăng. Nên lại lấy những tập tục hủ bại từ trước, những tình trạng khốn
nạn hiện nay, đem ra mà ghép lên lời, tỉ tót cân quyền, ba tiếng than
sau, theo với một câu xướng trước.
Tôi đến Hà Thành mới đầy vài tháng, muốn tìm những văn nghị luận của
các sỹ phu ngoài bắc, đã lâu mà chưa được bài nào Gần đây ở nhà ông
Nghiêm là chủ họi Hà THành QUảng Hợp Ích Thương hội, được xem bài này
của ông Mai Sơn không xiết vui mừng, vội khuyên để xuất bản Lại được sớm
hôm đi lại, cùng nhau bàn bạc, thời sự, mới biết rằng ông đối với tiền
đồ Tổ quốc sắp nói trong một bộ sách lớn, mà bài này chẳng qua một mảnh
lông trong chiếc áo cát quang đó thôi. Và chẳng cứ như điều được biết,
thời cái thế kỷ 20 này, chính là cái cuộc đời của người văn minh, cùng
người bán khai, đương ganh đua lấy bước sinh tồn. Các nước Châu Âu, Châu
Mỹ trong vòng năm mươi năm nay; cái dây gắn bó của dân tộc, muôn người
cùng lòng, còn đường tiến hóa của nước nhà, một ngày ngàn dặm; mà những
kẻ lo sâu nghĩ xa ở trong nước, còn không ngại mòn óc nát tim, ráo môi
khô lưỡi; hàng ngày xây một cái huyễn tưởng sắp tới, rất hiếm rất nguy,
để rền rĩ ngay cạnh nách; hằng ngày một cái mục đích, rất tươi rất tốt,
để khua múa ngay bên mình; mà các nước Á đông chúng ta cùng rung động
xôn xao về cơn sóng gió mới của toàn thế giới. Những bậc nhân dân chí sĩ
giật mình về nhưng cơ sống chết mất còn của dân của nước, cùng nhau
xuôi ngược kêu rao, ngậm ngùi than vãn; sớm viết một tập sách, chiều ra
một tờ báo; để hằng ngày gõ vào đầu, khua vào óc cho ngư ờitrong nước;
khác nào vớt chết đuối, chữa cháy nhà, không thể một khắc nào là để
chậm; khác nào đói ăn cơm, khát uống nước, không thể một người nào là
nhạt nhẽo. Ấy thế mà một người rên trăm người hỏi, một người xướng trăm
người theo, đọc những sách, xem những lời bàn; cơ hồ không biết là nét
chữ hay dòng châu, là nét mực hay dòng máu; khiến cho người xem phải
khóc phải ngâm, phải nghe phải tức, phải dựng chân tóc, phải đau khúc
lòng. Đến nay xếp vào nhà có thể chật đến xà ngang, tải lên xe có thể
nhọc cho trâu kéo(thử chi vị: hãn ngưu, sung đống = chính là bảo; làm
chảy mồ hôi trâu, làm đầy cả sàn nhà). Thế mà vẫn chưa thôi, nước ta
trong mươi năm nay, thế nước rất là đỗi khó khăn, lòng người ngày càng
suy kém, mờ ám trước mắt, cái đường nguy hiểm sau này đều có cái thế tan
hoang không đợi trọn ngày, điều đó cần phải kể. Người biết thời mới xét
được ra, người khéo miệng mới bày được gió. Thế mà những kẻ đọc sách
biết chữ trong nước chưa có ai làm được một bài bàn, viết được một quyển
sách, đăng được một tờ báo, để gọi là lay tỉnh người nước ta trong một
phần muôn. Dẫu có một vài ông học sĩ, đôi ba cậu thiếu niên, gọi độc
lập, nói tự do... song chẳng qua khí khái hão mà tức tối xằng, chắp nhặt
vài ba danh từ mới để làm câu nói đầu lưỡi chứ thực thì không phương
châm, cũng không mục đích, không lòng kiên nhẫn, không chí lâu bền, lúc
xoay đông lúc lại chuyển tây, chốc nóng bốc, chốc đã lạnh ngắt. Giả
phỏng có ai lấy lời ngông ý hỏi mà bẻ bai, đem mặt giận tiếng to mà dọa
nạt, thời lại hồn mê chí quẩn, mặt xám mình run, lấm lét bàng hoàng, bỏ
ngay chủ ý. Tìm lấy kẻ đã ngã thêm hăng, trăm lay chẳng chuyển, thời
thực là chưa thấy được mấy người. Sĩ đã thế rồi, dân lại càng quá, con
mong gì không chồn không khuất, tự đứng tự đi, trơ trơ giữ vững trong
vòng, đối mặt bi ca, dưới chỗ mấy lần áp chế, mở toang lối quậy, quát
lớn gào to, phá tan giấc mơ mọng cho triệu người, cứu vớt kiếp đắm chìm
cho muôn thủa, để mở một con đường sinh hoạt cho nhân dân, phóng một tia
sáng quang minh cho Tổ Quốc nữa đâu!
Than ôi! non sông Hồng Lạc, bể dâu chưa tắt khí thiêng, thời buổi gió
mấy, thảo dã còn nhiều người giỏi. Lên cao gọi một tiếng; nước ta còn
có người nữa không? Ta chắc rằng trong vòng gió bụi, dưới chốn suối
rừng, tất nhiên có một ông Mai Sơn vùng ngồi dậy, nhoẻn miệng cười mà
rằng; "việc đó không phải là việc lạ lùng gì lắm", mơ màng nghĩ đến,
tinh thần tìm đến, ta lại chắc rằng ông Mai Sơn cũng cho câu nói của ta,
phải như Hà Hán đâu xa mà ngờ!
Phan Châu Trinh soạn
chương thâu phiên âm theo nguyên bản chữ nôm
chương thâu phiên âm theo nguyên bản chữ nôm
Nguồn: Phan Châu Trinh toàn tập, tập 2, trang 83 đến 86, nhà xuất bản Đà Nẵng
PS: Trong bài, tôi vẫn giữ nguyên dấu ";" theo ý đồ người biên tập. Tuy nhiên ý đồ là gì thì tôi cũng ko rõ.