Khi một nhóm người chiếm quyền sở hữu tất cả ruộng đất trong một
nước, không phải chỉ những người dân mất đất bị thiệt thòi. Tai hại lớn
hơn là nền kinh tế của cả nước bị đẩy vào tình trạng trì trệ. Đây là
điều mà ai đã học qua môn kinh tế đều biết.
Người dân được cấp phát quyền sử dụng đất, ruộng, nhưng không được
làm chủ thật sự. Vì họ không có quyền đem ruộng đất trao đổi. Quyền sử
dụng cũng bị giới hạn trong 20 năm cho nên không khích lệ người ta có kế
hoạch khai thác lâu dài. Nhưng điều tai hại nhất là ruộng đất không
được biến thành VỐN, còn gọi là Tư bản, Das Kapital như Karl Marx viết,
tiếng Anh là Capital.
Nhiều người Việt Nam đã đọc cuốn Huyền bí của Tư bản (the Mistery of
Capital) của Hernando de Soto, ra đời năm 2003. De Soto đã chứng minh
rằng tại các nước nghèo ở châu Mỹ La tinh, ở châu Phi, châu Á, một
chướng ngại lớn trong việc phát triển kinh tế là thiếu vốn, thiếu tư
bản. Người ta chỉ nghĩ đến kêu gọi nước ngoài đầu tư, trông chờ tư bản
ngoại quốc. Nhưng cũng tại các quốc gia đó, de Soto thấy có hàng ngàn tỷ
đô la vốn nằm đọng, đáng lẽ có thể huy động được nhưng lại bị bỏ phí.
Lý do chính là người dân không có quyền làm chủ đất.
Nghiên cứu các nước nghèo, de Soto tìm ra hàng ngàn tỷ đô la bị phung
phí như vậy chỉ vì dân nghèo không được làm chủ đất. Họ sống ở những
khu ổ chuột, dân làm nhà, ở đó từ đời cha đến đời con, nhưng không có
quyền làm chủ mảnh đất họ dựng nhà. Nhiều người đã kinh doanh, tạo ra
các xí nghiệp nhỏ, nhưng lại không được hợp pháp hóa, vì họ không là chủ
mảnh đất dựng lên các cửa hàng hay xí nghiệp đó. Khi các tài sản này
không được chính thức công nhận, người chủ không thể đem cầm thế để vay
vốn của ngân hàng. Họ không thê dùng tài sản đó để góp vốn làm ăn với
người khac, không thể đem bán hay mua lại, ngoại trừ trong một nhóm nhỏ
những người quen biết nhau. Nếu tất cả được chính thức hóa, thì tổng số
vốn có thể được huy động lên rất lớn.
Thí dụ ở Haiti, nước nghèo nhất châu Mỹ La tinh, de Soto thấy tổng số
tài sản bị bỏ quên này lớn hơn tất cả những món tiền ngoại quốc đầu tư
vào Haiti trong suốt thời gian hai trăm năm, từ khi độc lập, năm 1804,
đến đầu thế kỷ 21. Lớn gấp 150 lần! Chỉ vì quyền sở hữu không được xác
nhận, nền kinh tế thiếu vốn. Nếu được công nhận, chính các nhà kinh
doanh nhỏ có thể dần dần mở mang công việc làm ăn của họ.
Lấy thí dụ gia đình ông Đoàn Văn Vươn. Họ bỏ công sức đắp đê ngăn
nước mặn, dẫn nước ngọt, trồng cây, nuôi tôm, nuôi cả, trong mấy chục
năm trời. Diện tích khai thác lớn dần, từ 20 mẫu đến 40 mẫu (ha). Sống
trong một nền kinh tế tự do bình thường, một gia đình đã dùng mồ hôi
nước mắt gần nửa đời người để tích lũy được một tài sản như vậy, thì tài
sản đó có thể biến thành vốn làm ăn, để họ phát triển lớn hơn. Chỉ cần
khai khẩn đất trong vòng 5 đến 10 năm là họ đã có một tài sản có thể
dùng để hợp tác làm ăn hay đem cầm thế, đi vay ngân hàng rồi. Người chủ
có thể mời người khác góp thêm vốn với mình, dùng mảnh đất mình đã khai
thác làm phần vốn đóng góp. Hoặc người ta đến ngân hàng, ký giấy vay nợ,
dùng mảnh đất đó cầm thế cho món nợ. Sau khi làm ăn, tài sản lớn hơn,
lại đi vay thêm để phát triển. Sau 20 năm, số vốn họ có thể huy đông sẽ
giúp họ tự biến thành các nhà kinh doanh về hải sản. Với sức cần cù chịu
khó, đã chứng tỏ trong việc khai thác đất biển thành đầm nuôi tôm, gia
đình Đoàn Văn Vươn xứng đáng trở thành những nghiệp chủ mới. Những công
ty Google, Facebook lớn nhất trong công nghệ tin học ngày nay đều bắt
đầu theo cách đó.
Nhưng ở Việt Nam, gia đình Đoàn Văn Vươn không có cơ hội phát triển,
ngoài một cách duy nhất là tiếp tục đổ mồ hôi trên đầm lầy. Bởi vì không
được làm chủ mảnh đất mà họ đổ máu và mồ hôi khai khẩn, cho nên họ
không bao giờ có thể dùng tài sản đó gây dựng thêm vốn. Mà cuối cùng,
chính họ lại bị đe dọa trục xuất ra khỏi mảnh đất mà họ đã tạo dựng nên.
Chính sách không cho dân làm chủ đất gây ra những cảnh oan khuất đau
lòng như trường hợp Đoàn Văn Vươn. Nhưng mối tai hại thực ra còn lớn hơn
nhiều, vì gây tai hại cho kinh tế cả nước chứ không phải cho riêng một
gia đình nào. Bởi vì đảng Cộng sản thu tất cả đất đai vào tay một nhóm
người quyết định, người dân Việt từ thành thị đến nông thôn đều “tay
trắng,” không ai được làm chủ một mảnh đất nào cả. Họ có thể bỏ công sức
làm lụng để xây hay mua một ngôi nhà, hoặc biến một thửa đất thành
ruộng trồng hoa mầu sinh lợi. Nhưng họ không có quyền làm chủ. Tài sản
của họ có thể được biến thành vốn, nhưng bị đặt vào thế bất động. Đó
cũng là cảnh tượng mà Hernando de Soto mô tả ở Ai Cập hay ở Haiti!
Số tài sản bất động ở nước ta lớn đến bao nhiêu? Muốn biết, chúng ta
phải ước tính xem một nông dân trung bình đang có tài sản độ bao nhiêu.
Thí dụ, một nông dân gần đây đã cương quyết từ chối không để cho nhà
nước thu hồi khu ruộng của gia đình anh, trao cho các công ty xây dựng;
anh từ chối không nhận tiền bồi hoàn trị giá gần 200 triệu đồng. Giả thử
chúng ta coi nhà nước tính đúng giá 200 triệu một cách công bằng. Nhưng
trong thí dụ này, chúng ta càng thấy chính sách cướp đất gây cảnh bất
công thế nào.
Người nông dân này biết tính toán lợi và thiệt khi từ chối. Bởi vì
sau khi nhận số tiền đó rồi, gia đình anh sẽ mất ngay công việc làm, mất
luôn kế sinh nhai. Đối với các ông nhà nước, trả 200 triệu “đúng giá,”
nhưng đối với một nông dân thì không! Vì với 200 triệu đồng, gửi ngân
hàng mỗi năm anh sẽ được hưởng bao nhiêu? Nếu ngân hàng trả lãi suất 10%
thì mỗi năm anh sẽ nhận được 20 triệu đồng. Nhưng với mức lạm phát hiện
nay, 20 triệu đồng sang năm được lãnh sẽ còn giá trị 20 triệu nữa hay
không? Với giá sinh hoạt tăng 10% một năm, một đồng năm tới chỉ còn giá
trị bằng 90 xu năm nay thôi! Rồi ba, bốn năm sau, số tiền 20 triệu đó có
tương đương bằng 10 triệu bây giờ hay không? Nghĩa là số tiền nhận được
sẽ càng ngày càng nhỏ đi! Ngược lại, nếu gia đình anh tiếp tục cầy cấy
trên thửa ruộng, thì nếu năm nay số thóc lúa kiếm được trị giá 40 triệu,
sang năm cũng số lúa đó sẽ lên 44 triệu vì giá sinh hoạt tăng 10%. Và
năm sau đó, số thu hoạch có thể bán được hơn 50 triệu; cứ thế tăng lên
mãi theo đà lạm phát!
Ví thử chúng ta công nhận tài sản của một nông dân trung bình là 200
triệu đồng, thì 40 triệu nông dân Việt Nam hiện nay đang ngồi trên một
đống tài sản đáng giá 8,000 “triệu triệu” đồng, tương đương với 400 tỷ
đô la Mỹ! Đó là một số vốn khổng lồ mà nếu de Soto trông thấy sẽ phải
kinh hoàng!
Tài sản đó không thể huy động được biến thành vốn, chỉ vì người nông
dân không được công nhận là chủ thửa ruộng mình cầy! Con số 400 tỷ đô la
trên chỉ ước tính trên ruộng đất mà thôi. Nếu tính cả những khu đất mới
được khai thác trên rừng, dưới biển, như gia đình Đoàn Văn Vươn đã làm,
nếu tính thêm cả đất làm nhà ở, xây nhà máy trong các thành phố, thì
tài sản bị ứ đọng, không được biến thành vốn ở nước Việt Nam sẽ lên hàng
ngàn tỷ đô la. Nếu mỗi năm Việt Nam nhận được 20 tỷ đô la đầu tư trực
tiếp từ nước ngoài, thì số vốn bất động ở nước ta còn lớn bằng số đầu tư
ngoại quốc trong năm trăm năm, cho tới một một ngàn năm!
Vụ án Đoàn Văn Vươn là một cơ hội để các nhà kinh tế nước ta, cùng
tất cả giới trí thức, thanh niên, và các doanh nhân đặt vấn đề với đảng
Cộng sản. Chủ trương cấm dân không được làm chủ nhân ruộng và đất đã
được nhập cảng từ Nga xô vào nước ta từ 30 năm nay. Đã tới lúc phải hủy
bỏ chính sách lạc hậu và phản kinh tế này. Nó ngăn cản sức phát triển
kinh tế của dân tộc.