Tác giả: Nguyễn Trọng Bình. Nguồn Viêt-studies
Là người Việt dĩ nhiên là tôi rất tự hào về lịch sử và “truyền thống chống giặc ngoại xâm” của dân tộc. Tuy vậy, thời gian gần đây mỗi khi nghĩ đến chuyện này tôi thấy có không ít băn khoăn.
1. Phải thừa nhận rằng, trong suốt
chiều dài dựng nước của dân tộc ta thì việc phải đối phó với giặc ngoại
xâm đến từ Trung Quốc là lâu dài và gian khổ nhất (1000 năm Bắc thuộc
trước đó và gần nhất là cách đây tròn 35 năm, ngày 17/2/1079). Việt Nam
cũng tiến hành chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nhưng chỉ
diễn ra trong khoảng thời gian ngắn và chỉ một lần. Không những thế, khi
người Pháp, người Mỹ xâm lược Việt Nam, về mặt quân sự, chính trị tuy
họ có gây ra những mất mát đau thương cho người Việt nhưng nếu nhìn ở
phương diện văn hóa, tư tưởng, giáo dục thì người Pháp và người Mỹ đã có
những đóng góp đáng kể giúp Việt Nam tiến bộ và văn minh hơn trước. Đặc
biệt ít nhiều đã giúp Việt Nam đã thoát ra khỏi sự “nô lệ về tư tưởng”
của người Trung Quốc.
Còn với Trung Quốc, thời nào cũng
vậy, mỗi khi sang xâm lược Việt Nam họ không những tàn ác về mặt quân sự
mà rất nham hiểm, thâm độc về mặt tư tưởng. Họ không chỉ thảm sát người
Việt mà còn tìm mọi cách làm cho dân tộc ta đời đời không thể ngoi lên
được để họ mãi “đè đầu cỡi cổ”. Lịch sử đã ghi nhận họ không chỉ bắt,
giết nhân tài nước Việt mà còn đốt hết văn thư, sách vở của cha ông ta.
Nham hiểm hơn họ còn tìm mọi cách để trấn yểm những nơi mà họ gọi là
“long mạch” với ý nghĩ làm cho dân tộc Việt phải diệt vong… Cho nên, với
tôi cách nói “truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta” phải chăng là cách nói mang hàm ý chống giặc ngoại xâm Trung Quốc là chủ yếu?
Nếu đúng như vậy thì mươi, mười mấy
năm qua nhận thức của người Việt Nam về cái “truyền thống” ấy hình như
đang có sự lệch lạc và sai lầm rất nghiêm trọng. Điều này thể hiện rất
rõ ở qua cách tuyên truyền giáo dục cho thế hệ cháu con về cái “truyền
thống” ấy. Để giáo dục thế hệ mai sau cái “truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc”, những “người có trách nhiệm” và các sử gia viết sách giáo khoa hầu
như chủ yếu nói về lịch sử chiến đấu, “chiến thắng” liên quan đến hai
cuộc chiến tranh với người Pháp và Mỹ gần đây mà hiếm khi đề cập đến
những cuộc chiến đấu của cha ông với người Trung Quốc trước đó và sau
này (nếu có cũng chỉ là cách nói sơ lược, chung chung).
Một minh chứng cụ thể là trong những
ngày này cách đây 35 năm, hơn 60 ngàn quân Trung Quốc hung hăng tràn
sang xâm thảm sát đồng bào ta ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Họ tiến
hành cuộc chiến tranh chớp nhoáng theo lệnh của Đặng Tiểu Bình với ý
nghĩ “dạy cho Việt Nam một bài học”. Sự tàn ác và nham hiểm của
họ nói thì nhiều nhưng có thể miêu tả ngắn gọn qua biểu hiện trong nhận
thức của quân dân ta lúc bấy giờ đó là: hoàn toàn bất ngờ, không ai nghĩ
là “đồng chí”, “anh em”, “láng giềng” với nhau mà họ lại hành xử với
chúng ta tàn ác và man rợ như vậy. Lịch sử về cuộc chiến tranh này rõ
ràng như vậy nhưng thử hỏi có bao nhiêu người Việt Nam nhất là thế hệ
trẻ hiện nay biết được? Thế thì một câu hỏi đặt ra là tại sao với kẻ mà
lúc nào cũng rắp tâm nếu thôn tính không được thì hủy diệt dân tộc ta
nhưng thời gian qua ta lại ít khi lên tiếng hoặc không dám lên tiếng mỗi
khi nói về “truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc”?
Những năm gần đây tôi tin là bất kì
người dân Việt Nam nào nếu có bỏ chút ít tìm hiểu tình hình chính trị
của đất nước cũng đều biết mối quan hệ giữa chúng ta với Trung Quốc đang
có nhiều “lấn cấn”. Tuy vậy, dẫu là biết có bất ổn nhưng tôi tin đa
phần người dân Việt Nam lại không biết (kể cả tôi) quan điểm, sách lược
cụ thể của lãnh đạo nước nhà trong việc đối phó với sự nham hiểm của bọn
người Trung Quốc như thế nào nhất là trong những thời điểm mà thái độ
hiếu chiến và ngang ngược của họ ngày một tăng theo cấp số nhân (dĩ
nhiên ở đây người dân không đòi hỏi để biết những vấn đề thuộc về bí mật
quân sự, bí mật quốc gia, vấn đề là người dân muốn biết cái quan điểm
mà qua đó cho thấy thái độ, tư thế, vị thế, bộ mặt của một đất nước Việt
Nam độc lập, bình đẵng trong mối quan hệ với Trung Quốc là như thế
nào).
Điển hình là việc họ liên tục gây hấn
trên Biển Đông như cắt cáp tàu của ta, bắt bớ đánh đập, bắn giết ngư
dân ta rất nhiều lần. Báo chí truyền thông của họ thì liên tục mạt sát,
hăm he, biêu riếu ta trong khi báo chí truyền thông (chính thống) của ta
thì hoàn toàn ngược lại. Qua các cơ quan truyền thông chính thống, gần
như người dân Việt chỉ biết được quan điểm rất chung chung của “những
người có trách nhiệm” liên quan đến vấn đề này là phải “dùy trì mối quan hệ láng giềng hữu nghị” hay “kiên trì giải quyết những bất đồng thông qua đàm phán trên cơ sở luật pháp quốc tế”.
Dĩ nhiên, quan điểm chủ trương này là đúng đắn. Trước hết nó thể hiện
tinh thần yêu chuộng hòa bình của người Việt Nam bao đời nay nên buộc
phải chín bỏ làm mười mà nhân nhượnghọ.
Tuy vậy, vấn đề là ta đã thực tâm,
thực lòng với họ nhưng họ có thực tâm thực lòng với ta hay không? Và tôi
tin là không một người Việt Nam nào có hiểu biết (nhất là những lãnh
đạo cấp cao của ta) lại không biết sự quỷ quyệt và nham hiểm của giới
lãnh đạo Trung Quốc. Nếu như vậy, thì nhất định chúng ta phải nghiêm túc
nhìn nhận lại những chuyện mà ta đã nhân nhượng họ bấy lâu nay. Nhất là
trong nhiều trường hợp có khi sự nhân nhượng đã biến thành sự nhu nhược
và yếu hèn lúc nào không hay.
Tôi lấy ví dụ tại sao lại không cho
người dân biểu tình chống lại sự hung hăng của họ trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa mà họ cướp của ta; tại sao báo chí đưa tin về
những vụ việc liên quan đến sự bắt bớ đánh đập ngư dân ta trên biển Đông
lại hạn chế và né tránh trong từ ngữ diễn đạt; tại sao không cho hay
không dám tổ chức những buổi lễ nhằm tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã
ngã xuống cách đây 35 năm – ngày mà họ xua hơn 60 ngàn quân tràn sang
xâm lược nước ta…?
Trong những trường hợp này, rõ ràng
rất khó mà thuyết phục dân chúng với lý do chúng ta phải nhân nhượng
những “chuyện vặt” để hướng đến “đại cuộc” gì đó. Bởi lẽ cần nhớ rằng
vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên biển với họ và vấn đề giáo dục thế hệ
cháu con nhằm “phát huy truyền thống đánh giặc ngoại xâm”thông qua việc tổ chức tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ đã nằm xuống cách đây 35 năm là hai vấn đề khác nhau.
Việc tranh chấp lãnh thổ suy cho cùng
đó là vấn đề mà nói trắng ra là thế giới ai cũng biết (duy chỉ có dân
ta đa phần lại rất mơ hồ), là vấn đề nhất định phải mang ra đàm phán đa
phương (trên cơ sở luật pháp quốc tế) còn vấn đề tổ chức tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ là vấn đề thuộc về nội bộ của chúng ta.
Về nguyên tắc thì Trung Quốc hay bất
cứ quốc gia nào khác không được quyền can thiệp vào chuyện nội bộ này.
Cho nên không có lý do gì chúng ta lại không cho dân mình cất lên nói
lên tiếng nói nhằm tri ân các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống mà lịch sử
đã thừa nhận đó là cuộc chiến tranh vệ quốc rất bi tráng và hào hùng
trong suốt chiều dài dựng nước của dân tộc (trừ phi có kẻ nào đó không
thừa nhận chuyện này).
Một vấn đề nữa, tôi tin rằng chắc
rằng giới lãnh đạo và các tướng lĩnh trong quân đội nước ta hiện nay đều
không quên nội dung toàn văn lời kêu gọi “Toàn quốc kháng chiến” của chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 19/2/1946 đặc biệt là những câu mở đầu của văn bản này như sau:
“Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta
phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng
lấn tới. Vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ.”
Ai cũng biết tình cảnh của cách mạng
Việt Nam thời điểm ấy do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo khó khăn như thế
nào. Nhưng hãy xem cách Chủ tịch Hồ Chí Minh đối phó với sự hung hăng
của thực dân Pháp lúc ấy ra sao. Rõ ràng sự nhân nhượng của Hồ Chí Minh
qua việc ký kết hiệp định sơ bộ 6/3 và hòa ước 14/9 với người Pháp là có
thật. Nhưng vấn đề là sự nhân nhượng ấy nó thể hiện cái tư thế rất
đường hoàng của một dân tộc, một đất nước vừa tuyên bố độc lập, yêu cầu
người Pháp phải thừa nhận và tôn trọng chứ không phải nhân nhượng trong
sự cam chịu vì khiếp sợ và nhu nhược. Nhân nhượng chẳng qua là để tranh
thủ thời gian nhằm chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mà theo nhận định
của chủ tịch Hồ Chí Minh là rất khó tránh khỏi.
Dẫu biết mọi so sánh đều khập khiểng
nhưng qua vấn đề trên một lần nữa cho thấy trong hoàn cảnh hiện nay
trong mối quan hệ giữa ta với Trung Quốc cụ thể là vấn đề liên quan đến
tranh chấp chủ quyền trên biển thì công lý (chiếu theo luật pháp quốc
tế) và chính nghĩa đang nghiêng về phía chúng ta. Vấn đề là thái độ của
chúng ta trong vấn đề này như thế nào? Chúng ta phải làm gì và đã làm gì
để có thể tranh thủ sự ủng hộ của đông đảo bạn bè trên thế giới hay
không mà thôi?
Cho nên, nếu chúng ta cứ mãi nhân nhượng Trung Quốc theo kiểu bất chấp “truyền thống yêu nước” và “truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm phương Bắc” của nhân dân thì theo tôi hậu quả sẽ rất khôn lường. Cá
nhân tôi cho răng, trong bất cứ hoàn cảnh nào, một chính quyền, một nhà
nước nếu nhân danh chuyện phải duy trì quan hệ hòa bình hữu nghị với kẻ
thù bên ngoài bằng việc cản trở thậm chí truy cứu lòng yêu nước của dân
mình đều là cách ứng xử tệ hại và sai lầm. Trong mọi thời điểm nếu phải
cân nhắc giữa một bên là nhân dân trong nước và một bên là những kẻ
ngoại bang nham hiểm nếu là một chính trị gia khôn ngoan, một nhà nước
thực sự vì dân sẽ không đời nào lại chọn kẻ ngoại bang mà bỏ rơi thần
dân trong nước mình. Đây không phải tư tưởng mà mấy trăm năm trước Nguyễn Trãi đã từng nói hay sao?
Việc nhân nghĩa cốt ở an dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
2. Một vấn đề mà thời gian gần đây
tôi cũng hay suy nghĩ đến là tại sao các nhà viết sử, các chính trị gia ở
ta hay khuyên thế hệ mai sau bằng cụm từ “phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm” .
Cá nhân tôi thấy có gì không ổn từ cách nói này. Bởi lẽ, cách nói này
ít nhiều phản ánh và hàm chứa một tư duy yếm thế, nhược tiểu của dân tộc
ta. Rõ ràng chúng ta không hề muốn chiến tranh, nhưng tại sao lại bảo
phải cháu con cần“phát huy truyền thống chống giặc ngoại xâm”?
Nói như thế phải chăng chúng ta đang
tự thừa nhận mình ở thế bị động, kẻ thù có thể ồ ạt mang quân qua giày
xéo quê hương bất cứ lúc nào. Phải chăng chúng ta đang tự thừa nhận
những khi đất nước thanh bình thì tinh thần dân tộc, nội bộ của chúng ta
đang “có vấn đề bất ổn” nên kẻ thù mới có cơ hội phát động chiến tranh
xâm lược? Có vẻ như lịch sử cũng đã cho thấy điều này thì phải? Hầu như
mỗi khi quân xâm lược phương Bắc tiến hành xâm lược nước ta, ngoài
nguyên nhân là do cái tham vọng “bành trướng” muôn đời của họ thì còn
một lý do nữa là nội bộ của chúng ta “có vấn đề” (triều đình phong kiến
nhu nhược hoặc không thì cũng chủ quan, lơ là và mất cảnh giác).
Thật ra đây chỉ là những băn khoăn
của riêng tôi khi nghĩ về tình hình của đất nước hiện nay trong mối quan
hệ với Trung Quốc. Có thể nhiều người sẽ không đồng tình với suy nghĩ
này. Tuy vậy, tôi cũng muốn nói rằng hiện nay thay vì nhà nước và chính
quyền lo tìm cách đối phó với dân mình khi họ bày tỏ và thể hiện lòng
yêu nước hãy dồn tất cả tâm trí để mà đối phó với người “đồng chí” ngoài
miệng thì nói lời “hảo, hảo” nhưng trong dạ thì tìm đủ mọi cách để hễ
có cơ hội là chà đạp ta. Bởi không khéo có khi ta lại rơi vào cái bẫy
của người “đồng chí 4 tốt” nhưng nham hiểm này.
Ngoài ra, trong hoàn cảnh hiện nay,
Việt Nam phải làm thế nào để thể hiện vị thế của dân tộc mình để những
kẻ có ý định xâm lược phải từ bỏ âm mưu và ý định của chúng chứ không
phải thụ động “chờ” kẻ thù sang rồi lúc ấy mới… “phát huy truyền thống đánh giặc”.
Và để làm được điều này tôi cho rằng trước hết, những người có trách
nhiệm cao nhất của đất nước cần phải phân biệt rõ và xác định đúng kẻ
thù thực sự đang rình rập mình.
Trong cảm nhận và sự hiểu biết của cá
nhân tôi, tôi cho rằng kẻ thù nguy hiểm nhất Việt Nam hiện nay và trong
tương lai không phải ai xa lạ mà chính là “người hàng xóm” ở ngay bên
cạnh mình. Tôi tin rằng nhiều người cũng sẽ đồng tình với tôi về quan
điểm này. Cho nên, tôi cho rằng đừng bao giờ đối xử thô bạo với nhân dân
trong nước khi họ biểu lộ lòng yêu nước dưới bất kỳ hình thức nào.
Trong lịch sử nhân loại, bất kỳ cuộc chiến tranh mang màu sắc “gà nhà bôi mặt đá nhau” nào cũng đều cho thấy sự xuẩn ngốc của những chính trị gia nắm quyền.
Cần Thơ, 15/2/2014