Đinh Phàm
Trần Đình Sử chuyển ngữ
Trần Đình Sử chuyển ngữ
Ai nhân danh cách mạng để bắt giữ pháp luật, tự do và nhân tính?
Mặc dù tôi không thích Arendt, bởi vì bà có quan hệ mờ ám, vừa học
trò vừa tình nhân với Heidegger, một người có quan hệ với Đức Quốc xã,
nhưng ý kiến của bà trong bài Bàn về cách mạng mang đầy tính chất lí tính, sâu sắc khiến tôi đồng tình.
Cái kết luận mà bà rút ra sau khi so sánh hai cuộc cách mạng chẳng
qua là: Bạo lực cách mạng chỉ được sử dụng một lần, nếu sau cách mạng mà
không xây dựng được một chế độ dân chủ và pháp luật có hiệu lực thì sẽ
không có tự do đích thực, sẽ rơi vào một vòng luẩn quẩn của đấu tranh
giai cấp bạo lực, của việc tiếp tục cách mạng lặp đi lặp lại không thể
đảo ngược.
Arendt khi truy tìm từ nguyên của từ “cách mạng” đã chỉ ra, “Từ cách mạng vốn là một thuật ngữ thiên văn học, nhờ công trình Bàn về sự vận hành thiên thể
của Kopernic mà nó ngày càng được coi trọng trong khoa học tự nhiên.
Trong thiên văn học nó vẫn bảo lưu ý nghĩa khoa học của thuật ngữ
Latinh, chỉ sự vận động có quy luật của các thiên thể…. Giống như một
sức mạnh khiến cho các thiên thể vận hành theo một quy luật nhất định
[1]. Không có quan niệm nào tương tự như tất cả các hành động khiến mọi
người mê hoặc lại đi xa hơn hai chữ cách mạng ấy. Nói một cách khác, các
nhà cách mạng cho rằng, trong quá trình tuyên cáo một trật tự cũ phải
diệt vong và đón chào sự ra đời một trật tự mới, thì họ chính là nhà
đương cục”. Đúng vậy, để đón chào cái thành quả to lớn của cách mạng
kia, sự ra đời một thế giới mới, chúng ta đã không ngừng tô vẽ cho cách
mạng, đồng thời, che đậy cái mặt tàn nhẫn, phản động của cách mạng.
Tất cả mọi cuộc cách mạng, nếu không có kết quả cuối cùng là một
pháp luật và một chế độ, thì cái cách mạng ấy rốt cuộc sẽ trở thành hòn
đá ngáng đường tiến lên của lịch sử. Đây chính là điều mà Arendt rút ra
sau khi so sánh cuộc cách mạng Pháp và cách mạng Mĩ, rồi phơi bày tất cả
các thứ tệ đoan của cuộc cách mạng tháng Mười Nga.
Nhìn lại một trăm năm “cách mạng” Trung Quốc, đúng như bà Arendt có
nói, “Nhìn từ phương diện lịch sử, chăm chú vào khoảnh khắc cách mạng
thì thấy, đại cách mạng đã biến chất thành chiến tranh, biến chất thành
nội chiến và ngoại chiến, quyền lợi của nhân dân vừa mới giành được,
chưa kịp xây dựng chính thức, liền biến chất thành tao loạn liên miên”.
Trung Quốc 20 năm đầu thế kỉ XX đã trải qua các cuộc chiến tranh quân
phiệt, chiến tranh kháng Nhật rồi nội chiến Quốc Cộng, tưởng rằng giành
được những năm tháng hòa bình, nhưng vị chúa tể của thế giới mới liền
tiến hành cuộc thanh toán dị đoan, đó chính là cái phương thức tư duy
của kẻ giành chiến thắng trong cách mạng Pháp mà Arendt đã tổng kết,
“bởi vì, tiếp theo là kẻ hành động vì cách mạng tự cho phép mình muốn
làm gì thì làm,” cho nên, “Làm thế nào để đề phòng kẻ cùng khổ ngày hôm
qua, hôm nay thành cự phú liền phát huy các quy tắc hành động của mình,
đem áp đặt chúng cho chính thể mới, các mối lo này của hôm nay chưa từng
có từ thế kỉ XVIII.” Giải thích theo lí thuyết của Arendt, mấu chốt để
phát động một cuộc “cách mạng” nhằm tiến tới xây dựng một nền dân chủ và
pháp chế thì phải sử dụng phương thức lập quốc theo cuộc “cách mạng”
pháp lí kiểu Mĩ, chư không đi theo con đường chỉ dựa vào cảm xúc và tình
cảm. “Phương hướng của cuộc cách mạng Mĩ trước sau đều nhằm dốc sức xây
dựng một nước tự do, một chế độ lâu dài. Đối với người hành động vì mục
tiêu đó, không cho phép bất cứ hành động nào ngoài phạm vi pháp luật
dân sự được thực hiện. Vì sự khổ đau nhất thời, phương hướng của cuộc
đại cách mạng Pháp ngay từ đầu đã xa rời quá trình lập quốc, nó được
quyết định bởi tính tất yếu, chứ không phải bắt nguồn từ nhu cầu bức
thiết giải thoát khỏi chính trị bạo lực, nó bị thúc đẩy bởi nổi thống
khổ quá ư nặng nề của nhân dân, và sự đồng cảm với nổi thống khổ vô bờ
bến ấy. Ở đây, cái tính chất tùy tiện vô phép tắc vốn bắt nguồn từ tình
cảm trong tâm hồn, tính vô hạn của tình cảm xúi giục thúc đẩy, đã phóng
thích cả chuỗi bạo lực liên tục.” Câu nói này mới sâu sắc biết bao!
Nước Trung Quốc thế kỉ XX đã đi qua trong cuộc chiến tranh của phong
trào văn hóa “ sau cách mạng” và “hậu cách mạng”, từ sự kiện Phúc Điền
[2], chỉnh phong Diên An, nội chiến, lại trấn áp phản cách mạng, chống
phái hữu rồi cách mạng văn hóa, không có sự kiện nào mà không phải là
diễn ra dưới quyền lực tập trung của cá nhân, không đếm xỉa đến nỗi
thống khổ của nhân dân, quyền lực của nhân dân bị biến thành kẻ hành
động vì cách mạng, biến thành tiếng kèn chiến đấu tiếp tục “cách mạng”.
Loại “cách mạng” này rõ ràng đã phải trả giá bằng sự hy sinh nhân tính
và hy sinh tự do. Do đó lí luận “Cách mạng không phải là được mời đi dự
tiệc” của lãnh tụ vĩ đại Mao Trạch Đông đã trở thành chân lí tối cao và
danh ngôn chí lí, mà đến nay vẫn còn thấm sâu trong quan niệm của bao
người chấp chính mà hoàn toàn không tự giác.
Cái quan niệm hạt nhân mà Arendt muốn bày tỏ qua sự so sánh hai cuộc
cách mang – cách mạng Pháp và cách mạng Mĩ thật là rõ rệt – cuộc cách
mạng đại chúng chỉ dựa vào lòng đồng tình và thương xót đối với người
nghèo khổ là không đáng tin cậy, đồng thời cũng không cứu được người
nghèo khổ, bởi vì cái “cách mạng” này không lấy nhân tính làm cơ sở: “Từ
ngày có cuộc đại cách mạng Pháp cũng chính là ngày mà tính vô hạn trong
tình cảm của các nhà cách mạng đã khiến cho họ vô cảm trước hiện thực,
vô cảm đối với số phận của những cá nhân. Tất cả những điều đó thật khó
tin. Vì các “nguyên tắc” của mình, vì “tiến trình lịch sử”, vì “sự
nghiệp cách mạng”, các nhà cách mạng sẵn sàng hy sinh mọi cá nhân mà
không hề hối tiếc. Tình trạng vô cảm đối với hiện thực tràn đầy tình cảm
này cũng đã thể hiện khá rõ rệt trong hành động của bản thân Rousseau,
trong biểu hiện thiếu trách nhiệm, tùy tiện lặp đi lặp lại của ông,
nhưng chỉ khi Robespierre đưa nó vào trong cuộc xung đột phe phái của
cuộc đại cách mạng Pháp nó mới trở thành một nhân tố chính trị quan
trọng đáng kể.” Rõ ràng Arendt không hề khẳng định hoàn toàn vai trò của
Rousseau và Robespierre trong cuộc đại cách mạng và chủ nghĩa khai
sáng, ngược lại, bà phủ định những tệ hại mà thứ “cacha mạng” này đem
lại cho xã hội, cho các cuộc “cách mạng” kế tục sau đó. Nói thật lòng,
đối với nhà khai sáng vĩ đại Rousseau tôi không hề muốn phủ nhận lí luận
và tư tưởng khai sáng do ông tạo nên, nhưng trong việc lựa chọn hai chế
độ xây dựng quốc gia thì tôi hình như lại thiên về phía Arendt, bởi vì
lịch sử đã cho chúng ta biết, “khai sáng” một khi đã bị “cách mạng” lợi
dụng, thì rất có thể nảy sinh “tha hóa”, từ đó mà phản bội nhân tính và
tự do.
Lời dự báo sau cùng của Robespierre đã chứng minh nguyên nhân thất
bại của chủ nghĩa khai sáng: “Chúng ta sẽ chết đi mà không đẻ lại dấu
vết gì, bởi vì trong dòng sông lịch sử của nhân loại, chúng ta đã bỏ lở
thời cơ thành lập một quốc gia tự do.” Cái nghịch lí này chứng minh một
sự thật lịch sử rằng công cuộc khai sáng sau khi bị cuộc cách mạng mù
quáng bắt cóc đưa lên cỗ xe chiến tranh đã gây nên biết bao hậu quả thảm
họa.
Khi người vô sản mất đi xiềng xích, trở thành nguyên động lực của
cách mạng, cách mạng dựa vào sức mạnh tình cảm mà giành chính quyền,
nhưng khi chiếc gông cùm của nghèo khổ ngày xưa đã tháo ra, phải chăng
người vô sản lại không khoác lên mình một chiếc gông cùm mới? Nếu nói
Mác đã kế thừa ý tưởng cách mạng của Roberspierre, phát triển thành học
thuyết đấu tranh giai cấp, thì Lenin trong lúc vội vàng đã quay lại con
đường cũ, thì Stalin đã tạo ra một mô hình cách mạng đấu tranh giai cấp
cực đoan nhất, mà Trung Quốc trong những năm 50 – 70 lại chạy theo mô
hình cực đoan ấy của Stalin, lại tạo ra vô vàn hậu quả thảm họa. Trong
cái chuỗi dây chuyền thế giới “vô sản toàn thế giới liện hiệp lại”, kẻ
chịu thảm họa sâu nặng nhất là nhân dân Liên Xô và nhân dân Trung Quốc.
Đương nhiên thảm họa nặng nể nhất là nhân dân Cămpuchia trong cuộc diệt
chủng của bọn Khơme đỏ của Cămpuchia dân chủ dưới sự lãnh đạo của lãnh
tụ cách mạng Polpot, nó chứng minh cho hậu quả về mặt luân lí của “cách
mạng”.
Trong giới tư tưởng Âu Mĩ các khái niệm “nhân dân” và “đại chúng” là
hoàn toàn khác nhau. Nhân dân là hình ảnh của dân chủ, còn đại chúng là
danh từ chỉ bọn người ô hợp. Cho nên Arendt nói: “Về mặt lí luận, điều
tai hại nhất là đem đánh đồng nhân dân với đại chúng.” Ở đây nhân dân là
những “công dân” có “giác ngộ”, là người dân tự do có quan điểm độc
lập; còn “đại chúng” là một đám người nô lệ tinh thần mông muội, là đám
AQ bị chấn thương tinh thần dưới ngòi bút của Lỗ Tấn, là bọn lưu manh dễ
bị mê hoặc bởi chiến lợi phẩm của cuộc cách mạng – Hitler đã lợi dụng
tình cảm của đại chúng mà dựng nên đảng Quốc xã, Stalin cũng lợi dụng
tình cảm đại chúng mà lập nên “Tcheka”, còn “Hồng vệ binh” của Trung
Quốc thì vẫn tồn tại trong huyết mạch của rất nhiều người, chỉ cần có
người vung tay hô to một khẩu hiệu, thì sẽ có vô vàn “cánh tay đỏ” vung
lên như rừng, và tiếng hô “Ura!”, “Vạn tuế!” vang động khắp nơi.
Nguồn: “多维新闻”本文网址: http://history.dwnews.com/news/2012-06-24/58767134-all.html
Ghi chú: Đinh Phàm, đảng viên cộng sản Trung Quốc, hội viên
hội nhà văn TQ, Giáo sư đại học Nam Kinh, Phó chủ tịch hội nghiên cứu
văn học Trung Quốc, Chủ tịch Hội phê bình văn học Giang Tô, Phó tổng
biên tập tạp chí Chung Sơn.
__________________________
[1] Tiếng Latinh, cách mạng là revolvere, nghĩa là quay vòng, chuyển động xoay vòng. ND.
[2] Sự kiện Phúc Điền: Đây là sự kiện do Mao Trạch Đông tạo ra để
thành trừng nội bộ vào tháng 12 năm 1930, tại Phúc Điền, tỉnh Giang Tây,
giết 120 người thuộc quân đoàn Hồng quân số 20, những người liên lụy bị
giết lên đến 70000 người. Năm 1956, Mao đã thừa nhận giết nhầm người,
nhưng đến năm 1989 dưới thời Hồ Diệu Bang, Dương Thượng Côn những nạn
nhân mới được tuyên bố vô tội. Đây là vụ thanh trừng đẫm máu đầu tiên
trong lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc. ND.