Bình Lê
Tham nhũng là vấn nạn của Việt Nam nhưng chúng ta đang chỉ chữa cái
triệu chứng mà không chữa cái gốc rễ. Tưởng rằng tham nhũng là do suy
thoái đạo đức, là sự lỏng lẻo của thể chế, nhưng thực ra là hậu quả của
tư tưởng mà chúng ta đang lựa chọn.
Ảnh: càng nhiều của công càng nhiều tham nhũng (nguồn: internet)
Các chiến lược được thực hiện gần đây tập trung nhiều vào rèn luyện
đạo đức của người cán bộ đảng viên. Tuy nhiên, con người thường hành
động ích kỷ, vì lợi ích riêng của mình. Chính vì vậy, nếu hành vi của họ
không bị kiểm soát thì họ sẽ tham nhũng. Từ đó, ngoài việc rèn luyện
đạo đức và liêm chính của người cán bộ, chúng ta xây dựng thể chế để
người có chức có quyền khó tham nhũng, nếu có tham nhũng thì dễ bị phát
hiện, và bị trừng phạt để răn đe. Hiệu quả của các biện pháp này là rất
ít, thể hiện ở việc tham nhũng ngày càng tràn lan, với mức độ nghiêm
trọng ngày càng lớn. Chính vì vậy, chúng ta phải đào sâu hơn nguyên nhân
gốc rễ của tham nhũng.
Ở Việt Nam tham nhũng và hậu quả của tham nhũng trở nên đặc biệt
nghiêm trọng hơn do sự mập mờ trong sở hữu tài sản. Hiểu đơn giản, tham
nhũng là quá trình chuyển tài sản từ sở hữu công sang sở hữu tư một cách
bất chính. Tài sản công còn nhiều thì nguy cơ tham nhũng còn lớn vì
không ai tham nhũng tài sản của chính mình cả (còn lấy của cá nhân khác
thì là trộm cắp, cướp giật). Điều này càng nghiêm trọng khi văn hóa tham
nhũng đã lan tràn, pháp luật phòng chống tham nhũng còn lỏng lẻo và thể
chế kiểm soát yếu kém như Việt Nam.
Hai tài sản có nguy cơ bị tham nhũng cao đó là đất đai và nguồn lực
trong các doanh nghiệp sở hữu bởi nhà nước. Về đất đai, hình thức sở hữu
hiện tại là “toàn dân” và nhà nước đại diện đứng ra quản lý. Chính vì
vậy, nhà nước, cụ thể là người đại diện cho nhà nước có quyền thu hồi
đất đai (có đền bù) từ người sử dụng này (nông dân) và chuyển cho người
sử dụng khác (doanh nghiệp). Trên thực tế, quá trình chuyển quyền sở hữu
thường kèm theo kiện cáo vì người mất đất cho rằng mình bị đền bù không
thỏa đáng, có những khuất tất trong việc quy hoạch hoặc áp giá, đặc
biệt khi chứng kiến giá đất được tăng lên hàng chục lần sau khi chuyển
đổi. Nếu là sở hữu tư nhân, việc thỏa thuận giữa các thực thể kinh tế sẽ
được thực thi theo nguyên tắc thị trường, khi đó sẽ không có sự can
thiệp của nhà nước và tham nhũng khó xảy ra trong các giao dịch đất đai.
Với các doanh nghiệp nhà nước, qua một số vụ tham nhũng điển hình như
Vinalines, Vinashines hay quan chức có biệt thự khủng hàng chục tỉ
đồng, chúng ta có thể thấy khối tài sản công đang được “chuyển đổi” theo
nhiều cách khác nhau bất chấp các cuộc học tập, noi gương và rèn luyện
đạo đức. Điều này nghiêm trọng hơn khi chính phủ vẫn bảo hộ các doanh
nghiệp nhà nước, không để họ cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp
tư nhân và nước ngoài. Khi đó, dù họ rút ruột doanh nghiệp có hệ thống
nhưng doanh nghiệp không thể phá sản vì doanh nghiệp được hỗ trợ vốn,
hoặc cho tăng giá sản phẩm ngay lập tức vì thế độc quyền. Chính môi
trường “bao bọc” này là điều kiện thuận lợi cho tham nhũng phát triển.
Rõ ràng dù có học tập và noi gương ai, dù có xây dựng luật pháp phòng
chống tham nhũng đến đâu, nếu các vấn đề cốt yếu như quyền sở hữu tư
nhân, thị trường cạnh tranh bình đẳng, và vai trò can thiệp tối thiểu
của nhà nước không được thực thi thì Việt Nam không bao giờ phòng chống
thành công tham nhũng. Để giải quyết, Việt Nam nên cổ phần hóa và tư
nhân hóa nhanh chóng các doanh nghiệp nhà nước, công nhận quyền sở hữu
tư nhân về đất đai, thúc đẩy thị trường tự do, và tạo điều kiện cho các
tổ chức xã hội dân sự phát triển để xã hội tự giám sát và điều chỉnh.
Đây không những là cốt lõi của việc phòng chống tham nhũng, mà còn là cơ
sở để phát triển một nền kinh tế cạnh tranh, một xã hội dân chủ và nhân
văn.