Trần Hoàng biên dịch
Chủ Nghĩa Cộng Sản hiện nay chỉ còn tồn tại ở một số
rất ít quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba,
Triều Tiên, ..., tuy nhiên sớm hay muộn cũng sẽ sụp đổ và tan rã,
đó là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược được của thời đại. Vì
công việc chuyển giao quyền lực là một quá trình vô cùng khó khăn
và phức tạp, lại có tác động quá rộng khắp, quá sâu sắc tới mọi
phương diện của đời sống xã hội không chỉ trong hiện tại, mà còn trong
tương lai nên việc nghiên cứu các kinh nghiệm cũng như các đánh giá quá
trình chuyển giao quyền lực ở các nước Cộng Sản cũ tại Đông Âu từ mọi
phương diện, mọi cách tiếp cận và nhìn nhận là hết sức cần thiết, không
bao giờ là có hại mà ngược lại, có thể đem lại cho chúng ta nhiều bài
học bổ ích, có thể lưu ý chúng ta về những khía cạnh tế nhị, tinh vi dễ
bị bỏ qua. Đó cũng là mục đích của bài biên dịch này.
2. Phe cộng sản đã khôn khéo lợi dụng sự non nớt, thiếu kinh nghiệm thực tế, cũng như những sai lầm và yếu điểm của lực lượng dân chủ trong thời kỳ đàm phán, thu được nhiều lợi ích cho họ
Một trong những tài liệu về viết về diễn biến chính trị tại
Séc-Slovakia trong thời gian kế sau sự kiện 17.11.1989 chi tiết nhất,
thường được nhắc tới nhất, là cuốn sách Mê Lộ Cách Mạng (tiếng Séc:
Labyrintem revoluce) của ông Jiri Suk, một nhà sử học và chính trị học,
hiện đang công tác tại Viện Sử Học Đương Đại thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học
Séc, xuất bản năm 2003. Dưới ngòi bút của một nhà sử học, các sự việc
được viết ra trong cuốn sách này đúng như chúng được tác giả quan sát
và biết đến, tổng hợp lại sau nhiều năm nghiên cứu; các nhận định, suy
luận, cũng như các suy diễn, nếu có, là tỉnh táo, hoàn toàn không có
tính quá thái, gò ép. Vì thế tài liệu này có thể cho người đọc một bức
tranh có thể nói là khá chính xác và khách quan về tình hình chính trị
tại quốc gia này sau cuộc cách mạng Nhung 1989. Dưới đây sẽ là nội dung
tóm tắt của cuốn sách.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia, vốn được qui định
trong hiến pháp năm 1960 của Liên bang hai nước này, đặt toàn bộ Quốc
Gia Séc-Slovakia dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng
Sản. Hệ thống hiến pháp dân chủ (từ năm 1968 thêm đặc tính liên bang)
thực chất chỉ là cái vỏ che đậy cho cơ cấu lãnh đạo với một trung tâm
quyền lực duy nhất.
Sau sự kiện 17.11.1989, ở nước này có quan điểm phổ biến nhưng khá mơ
hồ là chức vụ tổng thống sẽ giữ một ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ
chuyển đổi (tức là trước khi có tổng tuyển cử tự do).
Trong khi ông Ladislav Adamec, thủ tướng Cộng Sản đương nhiệm, đang
đàm phán với phong trào dân chủ, tập hợp quanh các tổ chức Diễn Đàn Công
Dân (Občanské Fórum) ở Séc và Công Chúng Chống Bạo Lực VPN ở Slovakia
về việc thành lập chính phủ mới (từ ngày 28.11 tới 6.12), Đảng Cộng Sản
Séc - Slovakia dường như bị đẩy ra ngoài rìa và hoàn toàn bị tước mất
khả năng can thiệp vào công việc chính trị trong nước. Ông Adamec trước
đó đã tạm thời từ giã đảng mình, nỗ lực hoạt động cá nhân nhưng không
thành công, vì thế ông ta thấy không còn lựa chọn nào khác là quay lại
với đảng phái chính trị trước đó của mình, tìm cách khôi phục địa vị
lãnh đạo trong đảng rồi dùng nó làm phương tiện thực hiện kế hoạch mới.
Đúng trong lúc tình thế là vô cùng bất lợi cho phe Cộng Sản thì
Diễn Đàn Công Dân chính thức công nhận Đảng Cộng Sản là lực lượng đàm
phán chính, ngẫu nhiên trả lại cho Đảng Cộng Sản một phần vai trò chính
trị. Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia đứng trước thềm một chính trường mới,
tinh vi hơn. Họ đã tận dụng cơ hội trời cho, khi phong trào dân chủ
không có kế hoạch chiếm đa số trong chính phủ mới, tìm cách lấy lòng
phong trào dân chủ. Sự sẵn lòng nhượng bộ rộng khắp, tuy nhiên, chỉ là
cái vỏ bên ngoài. Diễn Đàn Công Dân, lẽ ra phải có định hướng thực tế
trong tình hình hiện thời, lại hoàn toàn bị ngạc nhiên, có thể nói bị
sốc trước thái độ của Đảng Cộng Sản. Như thể cộng sản đã thực sự lùi
bước trước sức ép của dân chủ! Đảng Cộng Sản thì giải thích thái độ
nhượng bộ của mình như hành vi chuộc tội. Từ lúc đại diện của Đảng Cộng
Sản ngồi vào bàn đàm phán tại Cung Văn Hóa Praha, họ làm ra vẻ đã từ bỏ
hoàn toàn độc đoán quyền lực, đã từ bỏ hoàn toàn các phương thức chính
trị chuyên quyền, toàn trị.
Sau khi giải quyết xong vấn đề dàn xếp nhân sự cho chính phủ liên bang lâm thời, được gọi là “chính phủ thông hiểu dân tộc”
với kết quả không phải là hoàn toàn thua thiệt cho phe Cộng Sản nếu xét
tới thái độ chung của dân chúng dành cho họ trong thời gian này (thủ
tướng chính phủ là ông Marian Calfa, người của Đảng Cộng Sản), phe Cộng
Sản bắt đầu tập trung chú ý vào chức vụ tổng thống.
Dr. Gustáv Husák
Để thuyết phục được ông Gustáv Husák, tổng thống Cộng Sản đương
nhiệm, để ông ta tự động từ chức, không có gì là quá khó. Tuy thế, phe
Cộng Sản đã gắn vào việc này một dàn xếp chiến lược và đã thực hiện tốt
chiến lược này: ngày 8.12.1989, tại “bàn tròn”, đại diện Đảng
Cộng Sản chấp thuận điều kiện của Diễn Đàn Công Dân (bao gồm cả đại diện
của Công Luận Chống Bạo Lực VPN), để dành chức vụ tổng thống do một
người dân tộc Séc (không đảng phái) đảm nhiệm, vì chức vụ thủ tướng đã
được dành cho một người có dân tộc Slovaka (ông Calfa, đảng viên Đảng
Cộng Sản), mặc dù phe Cộng Sản đã tìm ra một phương cách giải quyết
khác, được chấp thuận kia ngụy trang giúp. Đó là một cách giải quyết rất
đơn giản, nhưng rất hợp thời và rất hiệu quả - bầu cử tổng thống trực
tiếp! Phe Cộng Sản đã khéo léo sử dụng thực tế là có nhiều ứng cử viên
ra tranh cử tổng thống: Václav Havel, Alexander Dubček, Cestmir Cisar và
Ladislav Adamec (hai người cuối là đại diện của Cộng Sản) để biện hộ
cho cách giải quyết này. Theo họ, để tôn trọng các nguyên tắc dân chủ,
tốt nhất là nên để các ứng cử viên có cơ hội bình đẳng trong việc tìm
kiếm ủng hộ của cử tri. Những lời thổ lộ có tính tự phê bình của các
nhân vật lãnh đạo Cộng Sản cao nhất, thú nhận công rằng quốc hội đương
nhiệm, với các thành viên là người của phe Cộng Sản, không có tư cách
xứng đáng để bầu lên tổng thống, gây bất ngờ nhiều người và không ngờ
đem lại hiệu quả cao. Mục đích chính của chiến thuật này là gây khó dễ
cho ông Havel, mở đường cho Adamec, người theo phe Cộng Sản có khả năng
thắng lợi khá lớn (trong con mắt của Cộng Sản, hai ứng cử viên còn lại
còn dễ chấp nhận hơn ông Havel). Phe Cộng Sản cho rằng bầu cử trực tiếp
có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng văn hóa chính trị mới. Tính
toán chính trị của họ là rõ ràng: họ muốn công luận thấy đợt bầu cử tổng
thống là thử nghiệm đầu tiên của dân chủ; nguyên thủ quốc gia phải được
người dân trực tiếp bầu ra, tiến trình dân chủ đang lan tỏa tới mọi
ngóc nghách đất nước. và người khởi xướng ra hướng đi duy nhất của dân
chủ là Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia đã hoàn toàn cải cách và thức tỉnh.
Mặc dù phe Cộng Sản lúc đó vẫn đang chiếm đại đa số quốc hội, họ
không thể thông qua bất cứ luật định nào mà không có trao đổi với phong
trào dân chủ. Vì thể, ngày 11.12, họ đề nghị khởi xướng đàm phán về bầu
cử tổng thống. Diễn Đàn Công Dân lúc đó, vì những lí do không rõ, lại
đột ngột thay đổi chiến lược đối thoại song phương trước đó của mình,
tuyên bố chỉ đàm phán nếu các đảng phái chính trị khác ở trong nước tham
gia “bàn tròn”. Khi các đảng phái chính trị lớn nhất trong
thời gian đó như Đảng Nhân Dân Séc-Slovakia, Đảng Xã Hội Séc-Slovakia …
ngồi vào bàn đàm phán thì đại diện của Diễn Dàn Công Dân có lúng túng
lớn, họ không thể đồng ý với ý kiến bầu cử tổng thống trực tiếp của phe
Cộng Sản, cũng không thể buộc các phía tham gia đồng ý đưa ứng cử viên
của họ, ông Vaclav Havel, lên giữ chức tổng thống mà không cần qua bầu
cử, nhất là khi các đảng phái khác đều có ứng cử viên của mình, lại cũng
không thể đề nghị Quốc hội liên bang với thành phần nhân sự cũ (Cộng
Sản) bầu ông Havel, nhất là khi chính phe Cộng Sản trước đó đã đưa ra
lưu ý về tính không phù hợp của một đợt bầu cử tổng thống bằng hình thức
này. Ngoài ra, ông Alexander Dubček, nguyên tổng bí thư Đảng Cộng Sản
Séc-Slovakia trong thời gian sự kiện Mùa Xuân Praha lừng danh thế giới
cũng có ý định tranh cử vào chức vụ tổng thống, ngoài các nguyên nhân
khác có nguyên nhân ông muốn nhận được đền bù chính trị thỏa đáng.
Nguyên nhân chính tại sao phe dân chủ bác bỏ bầu cử trực tiếp là do
có lo ngại ông Havel sẽ không thành công trong cuộc cạnh tranh cho chức
vụ tổng thống. Ông Havel được biết đến như một nhân vật đối kháng chống
Cộng Sản có tiếng ở nước ngoài nhiều hơn là ở trong nước. Phần lớn quần
chúng nhân dân chỉ biết tới ông ta sau sự kiện tháng 11 năm 1989. Các
ứng cử viên khác như ông Adamec (người có thể được nhiều phiếu bầu của
cử tri các vùng nông thôn có tuyên truyền mạnh của phe Cộng Sản), và đặc
biệt là ông Dubček, đều có thể là những ứng cử viên nặng giá. Tên tuổi
ông Dubček đã ăn sâu vào tâm trí nhân dân như "người anh hùng của Mùa Xuân Praha",
như một lãnh đạo cộng sản thực sự muốn thực hiện các cải cách dân chủ
hóa trong xã hội. Tên tuổi ông Dubček cũng lừng danh ở nước ngoài. Trong
mọi tiêu trí đánh giá, ông Dubček hơn hẳn Havel. Ngay cả trong quốc hội
người ta cũng dự đoán là Dubček sẽ nhận được ủng hộ toàn diện. Trong
lúc đó Havel không có ủng hộ ngay cả từ phía gia đình của mình, vợ ông
ta là bà Olga không đồng tình và mẹ vợ là bà Dagmar thậm chí nói thẳng
cho ông ta biết là bà sẽ ủng hộ ông Dubcek. Bản thân ông Havel cũng
hoàn toàn không muốn tham gia các cuộc tranh luận chính trị trên
các phương tiện thông tin đại chúng cùng với các ứng cử viên
đối thủ của mình, nơi ông ta có thể thuyết phục giới cử tri,
cho họ thấy ông ta là ứng cử viên ưu việt nhất, xứng đáng
nhất. Ông Havel cho rằng việc ông ta lên giữ chức vụ tổng thống
là điều hiển nhiên, không có gì phải bàn cãi, điều này làm
cho công việc của Diễn đàn thêm khó khăn.
Đứng trước thế tiến thoái lưỡng nan này, phong trào dân chủ, trước
hết là Diễn Đàn Công Dân, đột nhiên lại có thay đối chiến thuật, đòi hỏi
phải có sự tiếp nối hiến pháp, tức là tuân thủ theo bản hiến pháp (Cộng
Sản) đang có giá trị để tổ chức bầu cử tổng thống qua quốc hội. Thế là ở
đây xuất hiện một nghịch lý lớn: phe dân chủ muốn giữ nguyên trạng hiến
pháp của chế độ cũ, trong lúc đại diện của chế độ cũ lại đang nỗ lực
tìm cách tiến hành những thay đổi lớn trong hệ thống hiến pháp.
Diễn Đàn Công Dân sớm nhận ra nghịch lý này, cho điều này là có “hơi kỳ một chút”.
Họ giải thích là không phải mọi việc có vẻ dân chủ đều dân chủ, rằng
tổng trưng cầu dân ý là một trong rất nhiều các phương tiện chính trị,
bản thân nó không phải là tự hoàn hảo, tất cả phụ thuộc vào việc nó được
dùng tới khi nào, họ cho rằng đây là thời điểm kém phù hợp nhất cho
việc thay đổi hiến pháp một cách thiếu cân nhắc và miễn cưỡng, rằng thêm
vào đó hiến pháp cần phải được thay đổi bới những người dân chủ, chứ
không phải bởi đại diện của chế độ cũ.
Đó là các lý lẽ nói chung là đúng, nhưng không mấy thuyết phục. Giới
chính trị đối lập hoàn toàn không muốn hiểu, còn người dân lại không có
khả năng để hiểu được. Vì thế ủng hộ cho bầu cử trực tiếp không lắng
xuống mà còn mạnh lên. Nhiều tổ chức và đoàn thể đứng về phía tổng trưng
cầu dân ý (tức bầu cử trực tiếp), hoặc vì ngây thơ, thực lòng muốn góp
sức cho một việc có ích, hoặc vì tính toán thực dụng. Trên báo chí xuất
hiện kết quả các đợt lấy ý kiến người dân, cho thấy đại đa số dân chúng
đồng tình với bầu cử trực tiếp. Mặc dù có cố gắng bằng nhiều cách, Diễn
đàn công dân tiếp sau đó không thành công trong việc tìm kiếm ủng hộ của
đông đảo quần chúng.
Ngay cả trong quốc hội thì cũng không có gì đảm bảo cho phong trào
dân chủ. Khả năng để Diễn Đàn Công Dân tác động được đến Quốc Hội Liên
Bang là rất nhỏ vì không có đại diện của mình trong cơ quan này. Trong
số 350 thành viên của quốc hội thì đại đa số là đại diện của Đảng Cộng
Sản, chỉ có nhóm 17 thành viên của Đảng Nhân Dân Séc-Slovakia và một vài
đảng viên của Đảng Xã Hội là đại diện cho lực lượng dân chủ. Các ý
tưởng của Diễn Đàn Công Dân chỉ được gián tiếp tuyên bố thông qua số ít
các nghị sĩ của hai đảng này. Vũ khí duy nhất của phong trào dân chủ là
tổng huy động quần chúng. Nhưng ngay sau khi thành lập “chính phủ thông hiểu dân tộc”,
Diễn Đàn Công Dân lại đã có kêu gọi từ bỏ mọi hoạt động đình công, biểu
tình dưới lý do nhanh chóng thiết lập ổn định ổn định trong
nước, họ cũng cho rằng con đường đi tới tổng bầu cử tự do đã phong
quang và chắc chắn. Mặc dù có đề xuất trước hết tái tổ chức cơ cấu nhân
sự của quốc hội liên bang (tức là cách chức những nghị sĩ thoái hóa,
thay bằng đại diện của Diễn đàn công dân và Công chúng chống bạo lực),
rồi mới để quốc hội bầu ra tổng thống, cũng như một số đề xuất khác,
công cuộc đàm phán vẫn là trong ngõ cụt, không có tiến triển gì.
Trong tình thế được coi là bất lợi mọi mặt cho phong trào dân chủ, ông Marian Calfa, thủ tướng chính phủ "Thông Hiểu Dân Tộc",
một nhân vật trước đó kín tiếng, ít xuất hiện, chỉ được biết đến như
một hình nộm tạm thời ngồi trên ghế thủ tướng bất quá là tới đợt tổng
tuyển cử quốc hội sắp tới, đã vào cuộc. Cần nhắc thêm ở đây là trước đó,
ông Calfa đã từng giữ chức thủ tướng chính phủ trong thời gian vài ngày
(7.12.1989 – 10.12.1989) sau khi ông Ladislav Adamec, thủ tướng chính
phủ Cộng Sản từ năm 1988, xin từ chức. Trong thời gian đàm phán về
chuyển giao quyền lực, phe Cộng Sản đứng đầu là thủ tướng Ladislav
Adamec đang thoái vị thấy cần thiết phải có một đại diện không những chỉ
có năng lực chính trị mà chủ yếu phải có năng lực chuyên môn, nhất là
trong lĩnh vực pháp lý để đưa Đảng Cộng Sản ra khỏi cuộc khủng
hoảng trầm trọng. Ông Marian Calfa vì thế đã được ông Adamec đề xuất
lên thay mình. Ông Calfa là một chuyên viên luật, từ năm 1988 giữ chức
Bộ Trưởng Phụ Trách Pháp Lý đồng Chủ Tịch Ủy Ban Pháp Lý Nhà Nước. Nhiệm
vụ quan trọng nhất mà ông Calfa được trung tâm quyền lực chế độ cũ trao
cho là chuẩn bị thảo lập một bản hiến pháp mới. Bản hiến pháp mới này
đã được đệ trình lên vào tháng 10 năm 1989, về cơ bản không khác gì mấy
hiến pháp hiện hành từ năm 1960 và Pháp định về Liên Bang Séc-Slovakia
từ năm 1968, chỉ được thay đổi một vài điểm có tính chất hình thức để
phù hợp hơn với tình hình mới.
Từ cương vị thủ tướng chính phủ lâm thời của mình, ông Calfa theo dõi
cuộc chiến xoay quanh bầu cử tổng thống một cách chăm chú. Khó khăn của
phe dân chủ đã tạo cho ông ta một cơ hội can thiệp tích cực. Ông Calfa
biết rõ rằng việc can thiệp của ông ta có thể có tính quyết định, đồng
thời đó cũng là cơ hội để ông ta cho phe dân chủ thấy vị thế của mình.
Động cơ đứng ra can thiệp được ông Calfa giải thích vắn tắt sau đó như
sau: “Diễn Đàn Công Dân không làm thế nào để đưa ông Havel lên làm tổng thống”.
Václav Havel
Vào ngày 15.12, ông Calfa đã mời ông Havel đến trao đổi trong một gặp
mặt chỉ có hai người với nhau. Như sau này kể lại, ông Calfa quyết định
như vậy vì biết mình có vị trí đặc biệt mà diễn biến tình thế trong các
tuần cuối đã đem lại cho ông ta, lúc đó ông ta đã nắm trọn trong tay
mình hầu như mọi quyền lực quốc gia: với tư cách thủ tướng chính phủ ông
ta đang đại diện cho tổng thống, tức là cũng nắm chức Tổng Chỉ Huy Quân
Đội và Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Phòng Quốc Gia, ngoài ra còn cùng với hai
phó thủ tướng chỉ đạo Bộ Quốc Phòng Liên Bang. Với các thẩm quyền đặc
biệt, ông Calfa quyết định tiến hành công việc của mình, tính toán kỹ
không để có kẽ hở. Các chuyên gia được gọi về từ Đan Mạch được ông ta
trao cho nhiệm vụ tháo bỏ hệ thống nghe trộm trong một phòng họp của Văn
Phòng Thủ Tướng Chính Phủ. Tại đây, sáng ngày 15.12, ông Calfa đã gặp
ông Havel và hứa tìm cách sắp xếp để Quốc Hội Liên Bang bầu ông Havel
lên giữ chức vụ tổng thống trước khi năm 1989 kết thúc. Khi ông Havel
nói lên suy nghĩ của mình là Quốc Hội với thành phần nhân lực hiện thời
chắc không bao giờ lại bầu ông ta vào chức vụ tổng thống thì ông Calfa
đáp lại như một chính khách sừng sỏ và từng trải, đại ý rằng "họ
sẽ phải bầu thôi, dù sao các nghị sĩ cũng không phải là sắt đá, họ sẽ
tính toán lại sẽ phải hứng chịu những gì nếu chống lại ... Ngoài ra Quốc
Hội liên Bang không biết cách gây khó dễ, chưa bao giờ họ thử làm như
thế, còn ta thì phải sử dụng họ trong đúng thành phần nhân lực như hiện
tại, vốn quen thói thông qua mọi đề xuất mà những cá nhân có thế lực cao
đưa ra ..."
Và thế là hai người đã thảo ra một kế hoạch sau đó được giữ kín giữa
những cộng sự gần gũi nhất của họ. Thủ tướng hứa sẽ sắp xếp để các nghị
sĩ Cộng Sản kết thúc mọi hoạt động có liên quan tới bầu cử trực tiếp,
hoàn toàn tuân thủ theo ý nguyện của phong trào dân chủ, ông ta cũng sắp
xếp để một nghị sĩ nào đó của Slovakia từ chức, đưa ông Alexander
Dubček vào thế chân, những việc này phải được làm xong trước 19.12, ngày
hai nghị viện của Quốc Hội Liên Bang bắt đầu phiên họp để lắng nghe
tuyên bố về chương trình nghị sự của Chính Phủ Liên Bang, trong chương
trình của chính phủ, thủ tướng sẽ kêu gọi các nghị sĩ quốc hội vì ổn
định chính trị và đẩy nhanh tiến trình dân chủ hóa bầu ông Havel lên giữ
chức vụ tổng thống trước khi năm 1989 kết thúc. Kế hoạch được kết thúc
trong vòng hai tuần sau đó, vào ngày 28.12 với việc bầu ông Dubcek làm
Chủ Tịch Quốc Hội Liên Bang và bầu Havel làm Tổng Thống Liên Bang.
Ông Calfa quả đã tính toán tới từng chi tiết nhỏ nhất. Ông Havel khó
có thể trở thành tổng thống vì ông ta đã từng là tội phạm: tháng 5.1989,
trong một vụ án chính trị, tòa án Cộng Sản đã ban cho ông ta hình phạt
có điều kiện. Để dẹp đi cản trở hình thức này, ông thủ tướng, với tư
cách thay mặt cho tổng thống sẽ ra lệnh ân xá cho ông Havel. Tình thế
quả thực là trái khoáy: một vài ngày sau cuộc gặp gỡ song phương, người
giữ chức vụ cao nhất của chế độ mới nhận được qua đường bưu điện lệnh ân
xá với chữ ký của một quan chức hành chính Cộng Sản!
Kế hoạch chung trên được hai bên tiến hành từ ngày 16.12. Việc khó
nhất là thuyết phục các nghị sĩ để họ bỏ phiếu cho ông Havel. Trước một
số cá nhân ông Calfa phải dùng đến áp lực. Chỉ có riêng ông ta mới biết
rõ phương cách nào đã được ông ta dùng tới, tuy vậy ông ta đã nói sơ qua
như là rất cứng rắn: “Tôi đã khá tàn nhẫn. Quả thực là thế. Đơn
giản là có một số nghị sĩ cần thuyết phục … họ vốn cho rằng đó là lần
bầu cử cuối cùng của họ tại Quốc Hội, và sau đó đúng là như thế. Còn tôi
thì tôi quả thực đã rất ghê gớm, và tôi buộc phải nói là tôi đã lọt vào
một tình thế không mong muốn chút nào, vì một mặt tôi là người Cộng
Sản, còn mặt khác là một kẻ phản bội ghê gớm.” Trong nỗ lực này,
ông Calfa đã được Chủ Tịch Đảng Xã Hội Séc-Slovakia, Đảng Nhân Dân
Séc-Slovakia, các ông Bohuslav Kucera và Josef Bartoncík, những chính
khách thay đổi tư tưởng chính trị, trước đó đã được bầu vào Ban Chủ Tịch
Quốc Hội, giúp sức. Sau bốn ngày, mọi việc cơ bản đã được an bài.
Trong phiên họp vào ngày thứ ba, 19.12, Quốc Hội Liên Bang chỉ có hai
mục làm việc – tuyên bố chương trình của chính phủ và dự luật đề xuất
của nhóm nghĩ sĩ Đảng Nhân Dân về việc kéo dài thời gian bầu cử tổng
thống. Phiên họp đã được truyền hình trực tiếp và có thể theo dõi được
tại quảng trường Vaclav, nơi có hơn 100 nghìn sinh viên biểu tình ủng hộ
ông Havel. Tất cả các nghĩ sĩ lên phát biểu trong ngày hôm đó, bao gồm
cả các nghị sĩ Cộng Sản, đều nhất loạt ủng hộ ông Havel và nhất loạt
đồng tình với việc bầu tổng thống trước khi năm 1989 kết thúc. Đại diện
các đảng phái và phong trào chính trị tham gia đàm phán “bàn tròn”
chính thức thông qua vào ngày 22.12 đồng thuận về các chức vụ quốc gia
cao nhất – ông Dubcek sẽ là Chủ Tịch Quốc Hội Liên Bang, ông Havel Tổng
Thống Liên Bang Cộng Hòa. Ngày 28.12, trong một cuộc bỏ phiếu kín, Quốc
Hội đã bầu đúng như vậy với 100% số phiếu thuận cho cả hai trường hợp.
Trên đây là những sự việc then chốt diễn ra tại chính trường Liên
Bang Séc-Slovakia trong thời gian ngay từ 17.11 tới ngày ông Vaclav
Havel được chính thức bầu làm tổng thống dân chủ đầu tiên của quốc gia
này được miêu tả lại trong cuốn sách Mê Lộ Cách Mạng. Vai trò chính trị
của ông Calfa là có tính quyết định cho diễn biến này. Tuy nhiên, xuất
hiện những câu hỏi lớn về động cơ của ông Calfa trong "những đóng góp cho việc ổn định tình hình chính trị trong nước"
và hoàn tất công cuộc trao nhận quyền lực. Tại sao ông ta làm vậy? Ông
ta được gì trong thỏa thuận với ông Havel? Nội dung chính xác của thỏa
thuận kia là gì? ... Theo tác giả của cuốn sách trên thì các câu trả lời
là khá đơn giản: Ông Calfa vốn là một nhà chính trị thuộc nhóm thực
tiễn, không bị mù quáng bởi lý tưởng và răn dạy của đảng Cộng Sản, ngay
từ trước đó đã có sẵn nhìn nhận rằng thay đổi xã hội theo hướng dân chủ
hóa là không thể tránh khỏi, vì thế đã có ít nhiều chuẩn bị sẵn sàng.
Cũng là một nhà chính trị thực tiễn, ông ta đã từ bỏ ràng buộc đảng phái
và chọn lấy chiến thuật tìm sống sót chính trị cho riêng mình trong
tình hình chính trị mới (Ông Calfa không những không sống sót trên
trường chính trị mà còn đạt được những thành công không dễ có được:
không những là thủ tướng của chính phủ “thông hiểu dân tộc” lâm
thời, ông tiếp tục giữ chức vụ thủ tướng trong nội các chính phủ tiếp
theo (27.6.1990 – 2.7.1992). Trong thỏa hiệp với ông Havel, ông Calfa
không đại diện cho Đảng Cộng Sản, mà chỉ có tư cách đại diện cho cơ
cấu nhà nước mới và lợi ích của các cơ cấu này, một khi nhận được thức
rằng khúc ngoặt là định đoạt, ông ta đã khôn ngoan quyết định đi theo
hướng đi tất yếu của lịch sử, góp một tay cho phong trào dân chủ. Và
theo thông tin tác giả Jiri Suk nhận được từ phía các bằng hữu của ông
Havel thì yêu cầu đền đáp của ông Calfa chỉ có tính tượng trưng: ông ta
đề nghị phong trào dân chủ, trước hết là Diễn Đàn Công Dân, thay đổi
nhìn nhận không lấy gì làm tốt đẹp về mình.
Thực tế cho thấy lo lắng của Diễn Đàn Công Dân về khả năng ít thắng
lợi của ông Havel trong một cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp là hoàn
toàn có căn cứ. Ông Petr Pithart, một trong những lãnh đạo nòng cốt của
Diễn Đàn Công Dân, cộng tác gần gũi của ông Vaclav Havel trong những năm
then chốt 1989-1990 cho biết trong bài phỏng vấn đăng trên dennik.cz
ngày 19.10.2009 (đã nói tới ở phần trên): thì trong những ngày đầu tiên
của cách mạng, dân chúng ở Praha hô vang khẩu hiệu đòi ông Dubcek lên
làm tổng thống. Sau khi biết tới những nhân vật chính của cuộc đảo chính
xuất hiện, thì họ hô vang tên ông Komarek (Valt Komarek, giám đốc Viện
dự đoán thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Séc-Slovakia, cũng là một trong
những lãnh quan trọng của Diễn Đàn Công Dân, cũng đã được nhắc tới ở
phần trên) chứ không phải tên ông Havel. Các cuộc thăm dò ý kiến dân
chúng đầu tiên được tiến hành ở Séc sau ngày 17.11 cho thấy ông Komarek
có ủng hộ cao nhất, sau đến Adamec (ứng cử viên Cộng Sản) và ông Dubček
(chưa tính tới ủng hộ rất lớn cho ông Dubček) tại CH Slovakia, còn ông
Havel chỉ được khoảng 2% cử tri ủng hộ.
Theo ông Jiri Abraham, tác giả bài viết “Những người anh hùng và những tên Giuđa năm 1989 hay mọi thứ đều là không phải như vậy. Sự thật về sự kiện 17.11.1989”
đăng trên trang điện tử listopad.wordpress.cz đã nhắc tới ở phần
trên, thì sự thực là hoàn toàn khác với các kết luận về thỏa thuận
Havel-Calfa trong cuốn sách Mê Lộ Cách Mạng. Theo ông Abraham thì ông
Calfa là một nhà chính trị rất có năng lực, nhưng cũng không
kém phần khôn ngoan. Theo dõi sát sao cuộc tranh đấu chiếc ghế tổng
thống, cũng như tình thế khó khăn của Diễn đàn công dân, ông ta
nhận biết được thời điểm nên tỏ ra hào phóng, sẵn lòng giúp đỡ. Vì thế
ông ta mới chủ động mời Havel tới gặp, cuộc gặp gỡ này thực chất
bao gồm những thỏa hiệp sau:
1. Thống nhất là chức vụ tổng thống sẽ dành cho Vaclav Havel.
2. Thống nhất các điều kiện trao quyền lực chính trị cho Diễn Đàn
Công Dân, một tổ chức ngờ nghệch, thiếu chuẩn bị, không có đường lối rõ
ràng.
3. Điểm xuất phát là sự tiếp nối về mặt pháp lý hiến pháp và luật
pháp Cộng Sản. Vì Quốc Hội Cộng Sản là cơ quan thể chế bầu lên tổng
thống, nó sẽ nghiễm nhiên trở thành một bộ phận của hệ thống quyền lực
nhà nước mới.
4. Những điều trên đồng nghĩa với:
a) Tổng thống của “Cách mạng Nhung” sẽ được bầu ra bởi đại diện của phe Cộng Sản,
b) Người của phe Cộng Sản được đảm bảo không bị truy kết tội
phạm hình sự và được phép tiếp tục tham gia đời sống chính trị,
c) Bình đẳng trong kinh doanh kinh tế (thực chất là Cộng Sản có ưu
thế nhờ vào của cải đã vơ vét, tích lũy được và những lợi thế khác).
Vì có sự tiếp nối luật pháp, thực chất người của phe Cộng Sản,
trong bộ cánh mới có thay đổi tý chút, lại trở thành người cai quản
công việc quản lý đất nước trong chế độ mới. Ngay sau đó, vào
ngày 23.1.1990, Luật Định số 15/1990 về các đảng phái chính trị
được Quốc Hội Liên Bang thông qua, thực chất của luật định này
được cho là công nhận tính hợp pháp của Đảng Cộng Sản và đặt
nó dưới đảm bảo luật pháp của các cơ quan nhà nước và hiến
pháp. Như thế là “người của tướng Lorenc” và các đối tượng tương tự đã đạt được thắng lợi có lẽ không bao giờ họ ngờ tới.
Alexander Dubček
Theo thỏa hiệp giữa Calfa và Havel, ông Dubček, ứng cử viên nặng
ký nhất cho chức vụ tổng thống, đã bị dẹp sang một bên, cho giữ
chức Chủ Tịch Quốc Hội, tức là in hệt như năm 1969, sau ông khi mất
chức bí thư Đảng Cộng Sản! Người ta còn an ủi, cho ông lời hứa rằng “sau ông Havel sẽ đến lượt ông”. Ông Abraham có thông tin rằng khi biết được sự việc, ông Dubcek đã bật khóc, “với Dubček, đó là một sự sỉ nhục mà ông không còn đủ sức để khinh miệt, chỉ còn sức để khóc”.
Tác giả bài báo còn cho biết trong thời gian là bác sĩ làm
việc tại bệnh viện Na Homolce, ông Dubcek được chở chuyển tới sau
một tai nạn giao thông trầm trọng và ông ta đã khám bệnh cho ông
Dubček. Trong một lần khám bệnh, ông Dubček có nói với ông rằng: “… sẽ có ngày tôi nói ra sự việc xảy ra thế nào …”, tuy nhiên, điều này không bao giờ xảy ra, vài ngày sau ông Dubček mất ở bệnh viện này.
Còn ông Zbynek Cerovky, tù nhân chính trị trong chế độ Cộng Sản, thành viên Hiến Chương 77, trong bài viết có tựa đề: “Sự thật về ngày 13.12.1989”
đăng trên trang điện tử của Hiệp Hội Quốc Tế của Các Tù Nhân Chính Trị
Séc-Slovakia trong thời trước (SZCPV) thì khẳng định vào ngày 13. 12.
1989, một số đại diện của Diễn Đàn Công Dân được ông Havel cử ra đã có
một cuộc thỏa thuận mật với đại diện của phe Cộng Sản, đứng đầu là ông
Vasil Mohorita, thành viên hội đồng chủ tịch Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng
Sản Séc-Slovakia, và ông Jozef Hora, người phát ngôn của Đảng Cộng Sản,
với nội dung bàn bạc cụ thể về các điều kiện cho việc bầu ông Vaclav
Havel lên giữ chức vụ tổng thống thông qua bầu cử trong quốc hội. Điều
kiện chủ yếu của phía Cộng Sản là bảo lưu tính toàn vẹn và bất khả xâm
phạm của Bộ Nội Vụ và Quốc Phòng Liên Bang. Phía Diễn Đàn Công Dân đồng ý
với điều kiện này. Sau cuộc thỏa thuận, hai bên đã ra một bản thông cáo
ngắn, được Đài Tiếng Nói Séc-Slovakia phát đi, nhưng lại bác bỏ ngay
sau đó. Biên bản của thỏa thuận này được đại diện hai bên trình lên cho
ông Havel, một bản sau đó được gửi đi Mát-xơ-cơ-va. Khẳng định này cũng
được ông Cerovsky viết tới trong một bức thư gửi cho ông Havel (tất
nhiên là không nhận được trả lời), trong đó ông Cerovsky cũng tố cáo ông
Havel là lẽ ra ông ta, với tư cách là một người đối kháng trong chế độ
Cộng Sản, nay lên giữ trọng trách lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới,
phải lên án và kết tội Cộng Sản, trước hết là người của An Ninh Nhà Nước
StB, nhưng ngược lại, ông Havel lại trở thành người bảo vệ cho họ. Tiện
ở đây có thể nhắc tới một chi tiết hết sức thú vị có liên quan
với ông Zbynek Cerovsky: tháng 11 năm 1981, ông bị bắt và bị tòa án
Cộng Sản đã khép tội ông có hoạt động chống đối nhà nước, tuyên án ông 2
năm tù giam, còn vị quan tòa ban hành bản án này hiện thời đang giữ
chức chủ tịch tòa án huyện tại Pardubice, Cộng Hòa Séc!
Thực trạng có thất thoát, mất mát lớn trong lưu trữ tài liệu của các
cơ quan có liên quan trực tiếp như Bộ Nội Vụ, An Ninh Nhà Nước StB, Đội
An Ninh Quốc Gia SNB, Đảng CCộng Sản và một loạt các cơ quan, tổ chức
khác được cho là một hệ quả trực tiếp của thỏa thuận chính trị nói trên,
đặc biệt là trong liên quan tới tính toàn vẹn và bất khả xâm phạm của
hai Bộ Nội Vụ và Quốc Phòng Liên Bang. Có nhiều tài liệu thuộc loại phải
được công bố theo qui định của pháp luật tới nay vẫn không được các cơ
quan có thẩm quyền trách nhiệm công bố đầy đủ hoặc gây nhiều khó dễ, trễ
muộn trong việc công bố.
Theo Bản Phân Tích Sự Kiện 17.11.1989 của ông Miroslav Dolejsi,
đã được nhắc tới ở phần trước thì khi ông Sacher, bộ trưởng Bộ
Nội Vụ nhận được vào tháng 2 hoặc tháng 3 năm 1990 một số tài liệu liên
quan đến Hiến Chương 77, lực lượng nòng cốt điều hành Diễn Đàn
Công Dân và hồ sơ cá nhân của một số người cầm đầu phong trào này, gồm
chứa các thông tin nhạy cảm về quan hệ giữa Hiến Chương 77 với lãnh
đạo trong Đảng Cộng Sản đã biến mất. Tổng thống Havel sau đó đã điều
ông Jan Ruml lên giữ chức vụ phó bộ trưởng Bộ Nội Vụ Liên Bang. Trong
thời gian sáu tuần ông này làm việc ở Bộ Nội Vụ, hơn 15 nghìn bộ tài
liệu cá nhân (tức là hồ sơ tài liệu về các cá nhân An Ninh Quốc Gia StB
có quan tâm tới) cũng biến mất. Tổng thống Havel cũng đích thân đứng
ra yêu cầu Bộ Nội Vụ Liên Bang trao một số tài liệu cá nhân cho Hiến
Chương 77 (các ông Uhl, Urban). Hơn thế nữa, tất cả các tài liệu liên
quan đến các cuộc đàm phán giữa các lực lượng chính trị có ý nghĩa quyết
định về việc giao nhận quyền lực sau sự kiện tháng 11.1989 cũng bị tiêu
hủy. Điều này tạo ra rất nhiều nghi ngờ trong công chúng. Bản
thân ông Havel cũng có hứa hẹn là sẽ cho công bố biên bản ghi chép các
cuộc thương lượng bàn tròn trong các tháng 11 và 12, thời điểm có tính
bước ngoặt của năm 1989, lời hứa này không được thực hiện.
Vào năm 2005, Oskar Krejcí, một nhà chính trị học, đã từng là cố vấn
cho ông Ladislav Adamec, thủ tướng Liên Bang Séc-Slovakia trước tháng 11
năm 1989, đã nói:
"Sự thực là trong Ban Chấp Hành TW Đảng Cộng Sản Séc-Slovakia đã có việc hủy hồ sơ giấy tờ trong hơn một tháng trời. Đồng thời cũng xảy ra việc tiêu hủy các tài liệu cá nhân tại bộ phận nhân sự. Đại diện của chế độ mới có biết về công việc này. Một phần lớn lưu trữ của An Ninh Nhà Nước còn giữ được thì được chuyển đi. Không phải là sang phương Đông. Một phần được giao nộp cho Viện Sử Học Đương Đại và biến mất trong thư viện. Tuy nhiên tồn tại các lưu trữ vẫn có thể tra cứu đến, chứa đầy những tin chứng không chỉ về chế độ cũ, mà cả về các sự kiện trong ngày 17.11.1989. Nếu điểm qua tiềm năng trí thức trong các ngành khoa học xã hội ở Séc, lượng phương tiện vật chất được dùng tới để tìm hiểu sự kiện này cũng như các lợi ích chính trị đang trong cuộc thì tôi có thể đảm bảo rằng chúng ta sẽ không biết được sự thật về sự kiện 17.11.1989.” (trang điện tử zivot.azet.sk ngày 17.11.2013)
Để nhận xét chung về diễn biến tại Liên Bang Séc-Slovakia sau năm
1989 trong mối liên hệ này thì quả thực có thể thấy rõ là người của phe
Cộng Sản rất nhanh chóng thích ứng với tình hình mới, nhanh chóng rũ
bỏ liên hệ đảng phái cũ, sử dụng triệt để kinh nghiệm cùng các lợi thế
mọi mặt của mình để tiếp tục tham gia, nắm giữ các vị trí quan trọng,
thậm chí then chốt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, xã
hội và kinh tế quốc gia. Có thể nói là không chỉ có giới đảng viên Cộng
Sản mà ngay cả các cá nhân đã trực tiếp làm việc hay cộng tác với An
Ninh Nhà Nước StB trong chế độ cũ đều không bị bất kỳ một phân biệt đối
xử nào từ phía xã hội, chính quyền hay pháp luật, cũng không phải chịu
bất kỳ hạn chế, thiệt thòi nào trong đời sống, công việc hay sự nghiệp.
Nhiều người trong số họ còn là lực lượng nòng cốt đứng ra thành lập và
tham gia các đảng phái chính trị hiện đại theo hình mẫu phương Tây, với
chương trình hoạt động hiện đại, thức thời. Hoàn toàn không có gì là quá
thái khi định phần lớn giới lãnh đạo nhà nước cấp cao nhất trong Liên
Bang Séc-Slovakia và sau này tại hai nước CH Séc và CH Slovakia trong
những năm sau cách mạng cũng như trong các thập kỷ sau đó đều có quá khứ
liên quan ít hay nhiều với Đảng Cộng Sản, Đoàn thanh niên XHCN hay
các tổ chức Cộng Sản quan trọng khác.
Cũng không có gì là quá thái khi nhận định rằng phe CS quả thực hoàn
toàn không bị qui tội, chịu trách nhiệm cho những tội ác hay sai lầm
nghiêm trọng của họ trong quá khứ. Thí dụ như tại CH Séc, Ủy Ban Lưu Trữ
Tài Liệu và Điều Tra Tội Ác của chủ nghĩa Cộng Sản được thành lập
ngày 1.1.1995 cho sứ mệnh phát hiện và tố cáo các tội ác hình sự không
được xét xử vì những lý do chính trị trong thời kỳ 25.2.1948 –
29.12.1989. Từ khi được thành lập cho tới ngày 31.5.2013, có 82 đơn tố
cáo liên quan tới 110 cá nhân đã được gửi tới các cơ quan có thẩm quyền
xét xử, trên cơ sở đó chỉ có 9 người bị kết tội vô điều kiện và 30 người
bị kết tội có điều kiện. Hoạt động của ủy ban này bị nhiều tổ chức lên
án gay gắt, điển hình là Liên Đoàn Tù Nhân Chính Trị Séc (trang viết về
ủy ban này trên Wikipedia tiếng Séc).
Thay cho lời kết
Chủ Nghĩa Cộng Sản hiện nay chỉ còn tồn tại ở một số rất
ít quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Triều
Tiên, ..., tuy nhiên sớm hay muộn cũng sẽ sụp đổ và tan rã, đó là
xu thế tất yếu, không thể đảo ngược được của thời đại. Vì công
việc chuyển giao quyền lực là một quá trình vô cùng khó khăn và
phức tạp, lại có tác động quá rộng khắp, quá sâu sắc tới mọi phương
diện của đời sống xã hội không chỉ trong hiện tại, mà còn trong tương
lai nên việc nghiên cứu các kinh nghiệm cũng như các đánh giá quá trình
chuyển giao quyền lực ở các nước Cộng Sản cũ tại Đông Âu từ mọi phương
diện, mọi cách tiếp cận và nhìn nhận là hết sức cần thiết, không bao
giờ là có hại mà ngược lại, có thể đem lại cho chúng ta nhiều bài học bổ
ích, có thể lưu ý chúng ta về những khía cạnh tế nhị, tinh vi dễ bị bỏ
qua. Đó cũng là mục đích của bài biên dịch này.
Trần Hoàng