Nguyễn Hưng Quốc
Trong bài “Trận chiến chính trong thế kỷ 21”,
tôi nêu lên một số luận điểm của các học giả Tây phương: Tất cả đều cho
yếu tố chính làm phân hóa thế giới và dẫn đến các cuộc chiến tranh,
lạnh hay nóng, khốc liệt trong thế kỷ 20 đã thuộc về dĩ vãng là ý thức
hệ. Rộng hơn cả chính trị, trong toàn bộ lãnh vực nghiên cứu nhân văn
hay khoa học xã hội hiện nay, hầu như không ai nhắc đến ý thức hệ nữa.
Trước, các lý thuyết gia cho ý thức hệ là một thứ đại tự sự hoặc siêu tự
sự (grand narrative / metanarrative) và thời đại của các siêu tự sự ấy
đã qua và được thay thế bằng các tiểu tự sự. Sau, nhiều người cho cả lý
thuyết nói chung, vốn là kết tinh của các siêu tự sự ấy cũng mất dần sức
quyến rũ: Nhiều người gọi thời đại chúng ta đang sống hiện nay là thời
đại hậu-lý thuyết (posttheory).
Ở đây, Việt Nam là một ngoại lệ. Trên các diễn đàn chính thức và
chính thống ở trong nước, giới lãnh đạo Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định
là mâu thuẫn chính hiện nay vẫn là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội, là Việt Nam và Trung Quốc vẫn là hai nước đồng chí anh
em trong khối xã hội chủ nghĩa, là Việt Nam vẫn cương quyết đi theo con
đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, dù, theo lời thú nhận của Nguyễn Phú
Trọng gần đây, có khi đến tận cuối thế kỷ 21, vẫn chưa thực hiện được!
Những quan niệm như vậy không những lạc hậu mà còn là một ảo tưởng,
một ảo tưởng lạc hậu của những kẻ lú. Trên blog này, ở một số bài, tôi
có nhắc đến một ý kiến của Benedict Anderson, trong cuốn Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism
(1983): Ông cho, với cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Campuchia năm
1978 và chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1979, chủ nghĩa quốc
gia đã thay thế vai trò của ý thức hệ chính trị trong việc quyết định
các quan hệ quốc tế giữa nước này và nước khác.
Việc thay thế ấy càng hiển nhiên hơn nữa sau năm 1991, khi hệ thống
xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ hoàn toàn ở Liên Xô và Đông Âu. Từ đó, chính
chủ nghĩa quốc gia chứ không phải là ý thức hệ chi phối (a) toàn bộ các
quyết định tách rời hay gộp chung các biên giới chung quanh mỗi nước;
(b) xác định ai là công dân và ai không phải là công dân; (c) khẳng định
ngôn ngữ nào là ngôn ngữ quốc gia; và cuối cùng, (d), khẳng định các
quyền dành cho người dân thiểu số. Tất cả các cuộc chiến tranh và xung
đột ở Trung Âu và Đông Âu sau năm 1991 đều gắn liền với chủ nghĩa quốc
gia.
Ở châu Á, văn hóa hay văn minh - nói theo chữ của Samuel P.
Huntington - cũng không phải là yếu tố gây đoàn kết hay chia rẽ trên bàn
cờ chính trị khu vực. Những tranh chấp về lãnh thổ, đặc biệt là lãnh
hải giữa Trung Quốc với Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản, hay ngay cả với
Philippines thời gian gần đây là một minh chứng: Trên lý thuyết, theo
cách phân chia của Huntington trong cuốn The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order,
Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam đều có chung một nền văn minh, nền văn
minh dựa trên Khổng giáo. Giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng có rất nhiều
điểm chung. Ngay cả giữa Trung Quốc và Philippines, nhữngđiểm chung
cũng không ít: Mặc dù Philippines chịu nhiều ảnh hưởng của Tây phương,
từ Tây Ban Nha đến Mỹ, ở đó Thiên Chúa giáo đóng vai trò chủ đạo, nhưng
vốn là một quốc gia đa sắc tộc, một phần không nhỏ của Philippines có
gốc rễ từ Trung Hoa và cùng với họ, ảnh hưởng của Khổng giáo. Vậy mà họ
vẫn hục hặc với nhau. Ấn Độ và Pakistan cùng chia sẻ với nhau, hoặc
toàn bộ hoặc một phần, văn minh Hồi giáo, nhưng họ vẫn đánh nhau.
Có thể nói, ở châu Á, đặc biệt ở Đông Á và Đông Nam Á, trong khi
vai trò của ý thức hệ đã thuộc về quá khứ, vai trò của “văn minh” vẫn
chưa nổi lên và chưa có ý nghĩa gì đáng kể, mối quan hệ quốc tế giữa các
nước vẫn bị chi phối một cách mạnh mẽ bởi tinh thần quốc gia: Nước nào
cũng muốn khẳng định bản sắc của mình dựa trên lịch sử và nước nào cũng
nhắm đến mục tiêu có lợi cho chính mình; ở nước nào chính phủ cũng
giương cao ngọn cờ quốc gia chủ nghĩa để tập hợp quần chúng và tạo thành
sức mạnh.
Chỉ có ở Việt Nam là khác.
Trong hơn một thập niên vừa qua, không phải chính phủ mà là những
người đối lập hoặc độc lập với chính phủ mới là những kẻ hô to khẩu hiệu
quốc gia nhiều nhất. Không phải chính phủ mà là những người ly khai hay
các nhà báo và các blogger bị chính phủ cấm đoán hay trấn áp mới là
những người hay bàn đến vấn đề độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
nhất. Không phải chính phủ mà những người dân thấp cổ bé miệng đứng ra
tổ chức các cuộc xuống đường biểu tình để, nhân danh chủ nghĩa quốc gia,
chống lại âm mưu bành trướng của Trung Quốc.
Nói một cách tóm tắt, ở Việt Nam hiện nay, có hai xu hướng đối lập
nhau: nhà cầm quyền thì đề cao ý thức hệ, tiếp tục nhìn thế giới qua
lăng kính ý thức hệ xưa cũ, trong khi đó, dân chúng, hoặc ít nhất một bộ
phận càng lúc càng lớn của dân chúng, lại đề cao chủ nghĩa quốc gia,
xem chủ nghĩa quốc gia như một lý tưởng để tranh đấu, trước hết, chống
lại chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc.
Tính chất đối lập ấy có thể được nhìn thấy rõ qua các cuộc biểu
tình chống Trung Quốc trong gần một thập niên vừa qua: Trong khi dân
chúng xuống đường biểu tình chống Trung Quốc thì công an, theo lệnh của
nhà nước, lại trấn áp một cách tàn bạo. Không những trấn áp trong các
cuộc biểu tình với những dùi cui, cùi chõ và đế giày mà còn trấn áp sau
các cuộc biểu tình với những sự vu khống và những bản án thô bỉ căn cứ
vào tội danh “trốn thuế” hay “hai cái bao cao su đã qua sử dụng”.
Tại sao nhà cầm quyền Việt Nam lại cứ khăng khăng bám víu vào cái ý
thức hệ cũ kỹ như vậy để nhắm mắt trước nguy cơ lấn chiếm của Trung
Quốc và sẵn sàng đạp vào mặt dân chúng như vậy?
Lý do tương đối dễ hiểu: Họ sợ Trung Quốc hơn sợ dân.
Một số nhà báo nhiệt tình ở trong nước hy vọng một ngày nào đó họ
có thể làm thức tỉnh giới lãnh đạo để giới lãnh đạo nhận thức được tính
chất trầm trọng của nguy cơ bị Hán hóa, từ đó, biết sử dụng ngọn cờ quốc
gia chủ nghĩa để đoàn kết mọi người, hình thành một trận tuyến chung
bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia.
Tôi không tin và cũng không mong chuyện ấy xảy ra sớm. Tôi biết nhà
cầm quyền Việt Nam hiện nay sẽ không bao giờ công khai lên tiếng chống
Trung Quốc cho đến khi nào họ đối diện với nguy cơ bị dân chúng Việt Nam
lật đổ. Tất cả các nhà độc tài đều biết cách sử dụng chiến tranh, nhất
là chiến tranh chống ngoại xâm, dù một cách vờ vĩnh, để đoàn kết dân
chúng và để có cớ trấn áp những người đối lập một cách có… chính nghĩa
(nhân danh an ninh quốc gia!)
Trong tương lai, khi nhà cầm quyền Việt Nam mạnh bạo lên tiếng
chống Trung Quốc, tôi không biết họ có chống được hay không; tôi chỉ
biết chắc một điều: Họa độc tài sẽ kéo dài thêm một thời gian nữa.