Nguyễn Gia Kiểng
“…Các nước dân chủ không cần và cũng không sợ các chế độ độc tài nữa. Từ nay Liên Hiệp Quốc có thể hành động một cách quả quyết hơn. Nó đang hoàn tất tiến trình hóa thân từ một diễn đàn thành một tòa án, từ sứ mạng tránh thế chiến sang sứ mạng áp đặt trật tự dân chủ…”
Phải nói thực là cho tới vài năm gần đây tôi ít quan tâm tới Liên
Hiệp Quốc, còn Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc thì tôi chỉ coi như một
trò hề. Không phải vì tôi khinh thường Liên Hiệp Quốc, con kiến đâu dám
coi thường trái núi. Tôi không quan tâm tới Liên Hiệp Quốc vì một lý do
khác xin được trình bày sau.
Trong kỳ họp Kiểm Điểm Định Kỳ Phổ Cập (UPR) thứ 18 về tình trạng
nhân quyền tại Genève từ 27-01 đến 07-02-2014 vừa qua chính quyền cộng
sản Việt Nam đã nhận được 227 khuyến nghị – ngôn ngữ ngoại giao
có nghĩa là khiển trách và đòi hỏi cải thiện – từ 106 quốc gia tham dự.
Con số 106 quốc gia quan tâm chứng tỏ một tình trạng đáng lo ngại. Cùng
ngày 5-2 một quốc gia khác, Cộng Hòa Dominican, cũng được rà soát tình
trạng nhân quyền cùng với Việt Nam và chỉ có 46 quốc gia thấy cần phải
có mặt. Các quốc gia chỉ tham gia nếu thấy có vấn đề. Trong đợt kiểm
điểm thứ hai này chỉ có những chế độ anh em của Hà Nội lôi kéo được trên
100 quốc gia tham dự: Trung Quốc 137, Cuba 133, Nga 102.
Con số 227 khuyến nghị càng có ý nghĩa lớn hơn. Nó cho thấy dưới mắt
thế giới chính quyền cộng sản Việt Nam đã vi phạm quyền con người trên
rất nhiều điểm, nó cũng chứng tỏ tình trạng nhân quyền tại Việt Nam đã
tồi tệ hơn thay vì được cải thiện từ đợt kiểm điểm trước, bởi vì năm
2009 Việt Nam "chỉ" nhận được 123 khuyến nghị. Nhưng không phải chỉ có
thế, các khuyến nghị đều rất nghiêm trọng chứ không phải như những
khuyến nghị đối với các nước khác: hôn nhân đồng tính, tự do phá thai,
sai biệt nam nữ v.v... Chính quyền CSVN bị tố giác là đã đàn áp nhân
quyền ngay bằng luật pháp với những điều khoản như các điều 79, 88 và
258 của bộ luật hình sự và nhiều nghị định khác, đã giam cầm thô bạo
nhiều tù nhân lương tâm chỉ có tội nói lên một cách ôn hòa quan điểm của
mình.
Và Hà Nội đã phản ứng ra sao? Không đợi đến tháng 6-2014, hạn kỳ để
trả lời và phản bác nếu muốn, chính quyền Việt Nam ngay từ bây giờ đã
cho biết là sẽ chấp nhận hầu hết các khuyến nghị. Đây là một chọn lựa
khôn ngoan bởi vì những vi phạm đã quá rõ ràng. Thí dụ như những bản án
quá sức thô bạo đối với Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Xuân Nghĩa, Điếu Cày, Trần
Huỳnh Duy Thức, Tạ Phong Tần,Vi Đức Hồi, Đinh Đăng Định, Đỗ Thị Minh
Hạnh… để chỉ kể một vài trong số hàng trăm trường hợp. Tranh luận chỉ
làm xấu mặt thêm cho Hà Nội. Tuy vậy có nhiều triển vọng là sự khôn
ngoan của Hà Nội chỉ là một khôn ngoan chiến thuật, nghĩa là tránh né
tranh luận để được yên thân rồi vẫn cứ tiếp tục phớt lờ và vi phạm, như
họ đã từng làm sau đợt kiểm điểm kỳ I năm 2009. Cảm tưởng này càng được
tăng cường khi đọc bài phát biểu của thứ trưởng ngoại giao Hà Kim Ngọc,
trưởng phái đoàn Việt Nam tại phiên họp UPR ngày 5-2. Đó là một bài phát
biểu từ tốn, không khiêu khích kiểu "dân chủ xã hội chủ nghĩa hay hơn gấp một triệu lần dân chủ tư bản"
như bà Nguyễn Thị Doan, cũng không phản bác những khuyến nghị mà còn
nhìn nhận những thiếu sót. Nhưng vẫn che đậy và dối trá. Ông Ngọc khoe
khoang Việt Nam có tới gần một nghìn tờ báo đủ loại cho 90 triệu dân -
một số lượng báo tương đương với số báo phát hành tại một thành phố
trung bình tại các nước dân chủ - mà quên nói rằng tất cả đều là báo nhà
nước. Ông khoe rằng từ năm 2009, khi Việt Nam tham dự khóa họp UPR đợt
I, Việt Nam đã ban hành hoặc sửa đổi 25 đạo luật mà quên nói thêm là tất
cả đều nhắm mục đích giới hạn hơn nữa các quyền tự do vốn đã rất hạn
hẹp. Trong số này ông kể cả bộ luật hình sự, dù các điều 79, 88 và 258
không những vẫn còn được giữ nguyên mà còn được tận dụng hơn để giáng
hàng nghìn năm tù cho hàng trăm người dân chủ ôn hòa. Ông cũng lờ đi sự
kiện là các án tù đã khắc nghiệt hơn hẳn; những tội danh trước đây bị xử
2 hoặc 3 năm tù sau năm 2009 có thể bị xử nặng gấp hai hoặc ba lần,
thậm chí bốn lần (Trần Huỳnh Duy Thức 16 năm, Điếu Cày 12 năm, Tạ Phong
Tần 10 năm, Nguyễn Văn Lý 8 năm, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng 9 năm, nữ sinh
Đỗ Thị Minh Hạnh 7 năm).
Nhưng sự khôn ngoan chiến thuật đó lần này sẽ chỉ là một sự dại dột.
Hà Nội sẽ lầm to nếu nghĩ rằng vẫn có thể nói thế nào cũng được như
trước đây, bởi vì thế giới biết, và biết rõ, những gì xảy ra tại Việt
Nam. Chúng ta đang sống trong thời đại truyền thông. Lần này chính quyền
cộng sản sẽ còn lầm to hơn nữa bởi vì thế giới đã thay đổi và chính bản
chất của Liên Hiệp Quốc cũng đang thay đổi.
Những người dân chủ Việt Nam cũng sẽ lầm nếu thất vọng vì Liên Hiệp
Quốc đã không lên án và trừng phạt Việt Nam vì những vi phạm.
Đừng ngộ nhận bản chất của Liên Hiêp Quốc.
Liên Hiệp Quốc ra đời sau thế chiến II để thay thế cho Hội Quốc Liên (League of Nations, Société des Nations)
và để đừng lặp lại kinh nghiệm của Hội Quốc Liên. Kinh nghiệm đó là một
đối thoại giả dối vẫn còn hơn không có đối thoại, một hòa bình tồi tệ
vẫn hơn chiến tranh. Năm 1933 những cáo buộc và đòi hỏi cứng rắn đã
khiến các chế độ quốc xã Đức, phát xít Ý và quân phiệt Nhật rút khỏi Hội
Quốc Liên, và Thế Chiến II đã xảy ra. Liên Hiệp Quốc được thành lập năm
1945 ngay sau Thế Chiến II với sứ mạng là để chiến tranh lạnh không
biến thành chiến tranh nóng, nghĩa là thế chiến thứ III. Cho đến nay nó
không phải là nơi để lên án và trừng phạt. Nó là một diễn đàn để thảo
luận và thỏa hiệp. Nó tránh sự gay cấn và tìm mọi cách để giảm nhiệt. Nó
dung túng cả ngôn ngữ lưỡi gỗ nếu cần. Niềm tin căn bản của nó là, một
mặt, nếu không có chiến tranh thể chế dân chủ sẽ dần dần xác nhận bằng
thành quả sự đúng đắn của nó trong khi các chế độ độc tài sẽ để lộ bộ
mặt thật gớm ghiếc và, mặt khác, những gì đúng càng được nhắc lại nhiều
lần thì càng thêm sức thuyết phục trong khi những gì sai trái càng được
lặp lại càng thêm trơ trẽn. Và Liên Hiệp Quốc đã làm tròn sứ mệnh của
nó, phong trào cộng sản đã sụp đổ mà không xảy ra thế chiến. Để làm tròn
sứ mạng trọng đại này Liên Hiệp Quốc đã phải hy sinh nhiều nguyên tắc
và bỏ qua nhiều vấn đề, đồng thời cũng đã phải chấp nhận nhiều nghịch lý
cay đắng. Người ta còn nhớ hình ảnh Khruchev tháo giầy đập bàn và la
hét giữa đại hội đồng, Castro chiếm diễn đàn suốt tám giờ để lên án đế
quốc Mỹ và chủ nghĩa tư bản, các chế độ hung bạo thao túng Cao Ủy Nhân
Quyền và UNESCO v.v. Liên Hiệp Quốc không phải là nơi để trừng phạt
những chế độ chà đạp nhân quyền và công pháp quốc tế. Sứ mạng gần như
duy nhất của nó là để tránh cho thế giới khỏi lâm vào thế chiến. Chính
vì thế mà tôi không quan tâm tới Liên Hiệp Quốc, nó không có chức năng
để giải quyết những vấn đề đau nhức trong đất nước hoạn nạn của tôi. Còn
cái Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc thì quả thật chỉ là một trò hề, dù
là một trò hề thô bỉ nhưng bắt buộc, một cái giá phải trả để thế giới
không bùng cháy.
Sự trừng phạt của Liên Hiệp Quốc thực ra cũng có, nhưng không phải
như những người chầu chực ở văn phòng Cao Ủy Nhân Quyền nghĩ. Nó phơi
bày bản chất bạo ngược của những chế độ độc tài để dư luận thế giới đánh
giá và mỗi quốc gia tự rút ra kết luận cho mình trong chính sách đối
ngoại. Và dần dần sự trừng phạt này ngày càng có thực chất bởi vì thế
giới đã thay đổi và sứ mạng của Liên Hiệp Quốc cũng phải thay đổi theo.
Hai cột mốc cần được lưu ý trong tiến trình hóa thân của Liên Hiệp Quốc.
Cột mốc thứ nhất là khi bức tường Berlin sụp đổ, cuối năm 1989.
Phong trào cộng sản thế giới đã tan rã và nguy cơ thế chiến không còn.
Sứ mạng của Liên Hiệp Quốc đã đạt được và nó cần một sứ mạng mới để có
lý do tiếp tục tồn tại. Sứ mạng ấy khó có thể chỉ là tăng cường hợp tác
giữa các quốc gia bởi vì đó đã là vai trò của nhiều kết hợp khu vực.
Cũng khó có thể chỉ là gửi những đoàn peacekeeper tới các vùng
lâm vào tình trạng hỗn loạn vì đó chủ yếu tùy thuộc các nước giầu mạnh.
Như vậy sứ mạng chính của Liên Hiệp Quốc từ nay chỉ có thể là để bảo vệ
các giá trị phổ cập từ lâu đã được đưa vào hiến chương nhưng vẫn chưa
được thể hiện: dân chủ, nhân quyền và công pháp quốc tế. Sau nhiều năm
dò dẫm, năm 2006 Hội Đồng Nhân Quyền ra đời để thay thế cho Cao Ủy Nhân
Quyền đã quá bị tai tiếng, đánh dấu một chuyển hướng quan trọng của Liên
Hiệp Quốc. Năm sau cơ chế Kiểm Điểm Định Kỳ Toàn Cầu (UPR) về nhân
quyền được thành lập, theo đó mọi quốc gia đều bị kiểm điểm về tình
trạng thực hiện nhân quyền khoảng 5 năm một lần. UPR có quyền đề nghị
những biện pháp chế tài với những chính quyền ngoan cố không tuân thủ
những khuyến nghị. Liên Hiệp Quốc như vậy đã có chức năng trọng tài và
chế tài trên nguyên tắc. Trên nguyên tắc thôi chứ chưa được thể hiện
trên thực tế bởi vì tất cả mọi quốc gia đều phải qua thủ tục rà soát
định kỳ chứ không riêng gì những nước bị đánh giá là độc tài, và Hội
Đồng Nhân Quyền cũng rất tránh nói tới trừng phạt. Có thể ví UPR như một
cái thòng lọng; muốn thuyết phục các chế độ độc tài quàng chiếc thòng
lọng đó vào cổ mà chỉ dùng "áp lực mềm" người phải ta làm như
đó chỉ là một trò chơi, mọi người đều quàng cả. Điều khác biệt là ở chỗ
cái thòng lọng đó sẽ chỉ dần dần thắt lại quanh cổ những chế độ độc tài.
Cột mốc quan trọng thứ hai là năm 2011 với sự khởi động của một làn
sóng dân chủ mới -làn sóng dân chủ thứ tư trong lịch sử thế giới- bắt
đầu bằng Mùa Xuân Ả Rập. Hàng loạt các chế độ độc tài sụp đổ hoặc tự
chuyển hóa về dân chủ. Làn sóng dân chủ này vẫn còn đang tiếp tục, nhưng
ngay từ bây giờ so sánh lực lượng đã quá rõ ràng. Các nước độc tài đều
tụt hậu, sức mạnh quân sự quá thua sút so với khối các nước dân chủ và
trọng lượng kinh tế gộp chưa bằng 15% kinh tế thế giới. Các nước dân chủ
không cần và cũng không sợ các chế độ độc tài nữa. Từ nay Liên Hiệp
Quốc có thể hành động một cách quả quyết hơn. Nó đang hoàn tất tiến
trình hóa thân từ một diễn đàn thành một tòa án, từ sứ mạng tránh thế
chiến sang sứ mạng áp đặt trật tự dân chủ. Sự trừng phạt có thể bắt đầu.
Thực ra sự trừng phạt đã bắt đầu, dù vẫn là một cách gián tiếp.
Chính chế độ CSVN đã bị chế tài ngay cả nếu họ không nhận ra được. Hãy
so sánh con số đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trước năm 2009 và bây giờ.
Trong hai năm 2007 và 2008, sau khi Việt Nam gia nhập WTO, khối lượng
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã lớn hơn hẳn các nước trong vùng. Hiện
nay nó hầu như không còn gì, trừ những công trình đã xúc tiến khá xa và
không thể bỏ ngang. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu không phải là
nguyên nhân duy nhất.Nhận thức mới của thế giới là độc tài và tham nhũng
đi đôi với nhau, nhân quyền là đảm bảo cho một sinh hoạt kinh tế lương
thiện. Các chế độ độc tài còn lại đang sống những ngày cuối cùng khó
khăn. Từ nay chúng còn thêm một khó khăn mới, chúng sẽ không yên thân
với Liên Hiệp Quốc.
Chế độ cộng sản Việt Nam sẽ phạm một sai lầm lớn, có thể là sai lầm
cuối cùng và rất bi thảm, nếu nghĩ rằng họ vẫn còn có thể tiếp tục khá
lâu như hiện nay. Hơn lúc nào hết họ cần có đủ sáng suốt để thay đổi, để
làm tác nhân thay vì nạn nhân của cuộc chuyển hóa nhất định phải tới,
đang tới và đang gia tốc.
Và nếu Đảng Cộng Sản Việt Nam không có nổi sự sáng suốt đó thì chính
những người cộng sản phải đủ khôn ngoan và trách nhiệm để rời bỏ nhanh
chóng một con tàu đang chìm và đang đe dọa làm chết đuối cả một dân tộc
cùng với nó. Vì đất nước và vì chính họ.
Nguyễn Gia Kiểng
(02/2014)