Người xưa có câu “Thời thế tạo anh hùng”. Vậy nên người anh hùng 
trước hết là một sản phẩm thời thế, của sự vận động lịch sử. Thành công 
hay thất bại phần lớn ở yếu tố thời cuộc, chứ không phải chỉ ở tính đúng
 đắn của cương lĩnh và phương pháp đấu tranh.
Đặng Dung, một nhân vật lịch sử nước ta sống ở cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15 có bài thơ Thuật Hoài nói về thế sự như vầy:
(Việc đời dặc dặc tuổi già đây
Trời đất miên man nhịp hát hay
Bần tiện gặp thời thành nghiệp dễ
Anh hùng lỡ vận hận căm đầy.
Mong xoay trái đất lo phù chúa
Muốn rửa sông trời khó kéo mây.
Thù nước chưa đền đầu đã bạc
Mài gươm dưới nguyệt mấy thu rày)
Nhà chí sĩ Phan Bội Châu (1867 – 1940) thì lại có hai câu thơ sau:
“Ngẫm ra muôn sự tại trời
Vậy là, gặp thời thế thì kẻ thất học ngu dốt cũng thành công dễ dàng,
 thời vận chưa đến thì bậc anh hùng cũng đành ngậm đắng nuốt cay. Âu đó 
cũng là lẽ thường tình mà thôi. Nếu đem chuyện thắng thua mà luận anh 
hùng thì lại là một điều ấu trĩ bậc nhất xưa nay vậy. Vì thế mà binh 
pháp Tôn Tử có câu “Thắng không kiêu, bại không nản” là để cho các nhà 
cầm quân soi mình. Thắng hay thua không cần thiết, điều quan trọng là 
chúng ta tranh đấu cho chính nghĩa và tự do.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 trãi qua 
nhiều biến động. Đó là thời kỳ đấu tranh khốc liệt để giành độc lập tự 
chủ cho nước nhà. Tiếp bước tiền nhân, nhiều cuộc khởi nghĩa cách mạng 
đã nổ ra ở cả khắp ba miền.
Mở đầu là những cuộc khởi nghĩa Cần Vương do Tôn Thất Thuyết vua Hàm 
Nghi phát động. Tiêu biểu nhất trong số đó là khởi nghĩa Hương Khê (Hà 
Tĩnh) của nhà yêu nước Phan Đình Phùng. Đây là cuộc khởi nghĩa có quy mô
 lớn và kéo dài nhất của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19. Địa bàn 
hoạt động của nghĩa quân Hương Khê bao gồm 4 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, 
Hà Tĩnh, Quảng Bình. Nghĩa quân đã thực hiện nhiều cuộc tập kích gây 
thiệt hại nặng nề cho quân địch. Sau nhiều lần càn quét, quân Pháp đã 
hình thành thế bao vây nghĩa quân. Trong trận chiến ác liệt tại núi 
Quạt, chủ tướng Phan Đình Phùng bị thương và hy sinh ngày 28/12/1895. 
Như vậy là cuộc khởi nghĩa Hương Khê kéo dài 10 năm (1885 – 1895), đến 
đây thì chấm dứt.
Tiếp đó là khởi nghĩa Yên Thế của nghĩa quân Đề Thám (1885 – 1913. 
Lãnh tụ Đề Thám (người vẫn được gọi là Hùm thiêng Yên Thế) đã lập căn cứ
 tại Yên Thế (tỉnh Bắc Giang) để mà tiến hành công cuộc kháng Pháp. Sau 
nhiều trận thắng giòn dã thì lực lượng nghĩa quân cũng đi dần đến chỗ 
suy yếu do quân Pháp lúc này còn quá mạnh. Ngày 29/01/1909, Thống sứ Bắc
 Kỳ đã huy động 15.000 quân chính quy và lính khố xanh, 400 lính dõng 
(đây là lực lượng mạnh nhất từ trước tới nay) để tổng tấn công vào căn 
cứ Yên Thế. Đề Thám vừa tổ chức đánh trả, vừa rút lui lên Thái Nguyên, 
Tam Đảo. Con trai của Đề Thám là Cả Trọng bị tử thương và con gái út là 
Trương Thị Thế bị địch bắt. Lực lượng nghĩa quân lúc này giảm sút dần và
 tới cuối năm 1909 thì tan rã. Đề Thám phải sống ẩn náu trong núi rừng 
Yên Thế cùng hai thủ hạ tâm phúc của mình.
Ở miền Thái Nguyên cũng nổ ra cuộc khởi nghĩa do Đội Cấn lãnh đạo. 
Cuộc nổi dậy bắt đầu từ đêm 30/8/1917. Đội Cấn chỉ huy lực lượng 175 
người lính phá ngục, đoạt khí giới đạn dược, giết binh lính Pháp. Sau đó
 nghĩa quân cướp kho bạc và làm chủ toàn tỉnh lỵ. Họ truyền hịch đi các 
nơi để chờ đợi sự hưởng ứng chi viện. Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa tuyên bố 
độc lập, lấy quốc hiệu là “Đại Hùng”. Sau đó đó quân Pháp bắt đầu phản 
công. Nghĩa quân phải triệt thoái khỏi Thái Nguyên và chạy về phía Bắc. 
Đội Cấn sau đó dẫn quân chạy lên Đại Từ, Tam Đảo rồi xuống Vĩnh Yên. Bị 
truy nã, ông rút về núi Pháo cố thủ. Rồi không để mình bị rơi vào tay 
giặc, ông đã rút súng tự vẫn. Đó là ngày 11/01/1918. Cuộc khởi nghĩa đến
 đây thì chấm dứt.
Những cuộc khởi nghĩa trên thất bại là do lực lượng còn mỏng, lại 
chưa được tổ chức chặt chẽ. Trong khi đó kẻ địch là thực dân Pháp còn 
quá mạnh và vẫn đứng vững ở Đông Dương. Tuy thất bại vì diễn ra không 
đúng thời điểm nhưng các cuộc khởi nghĩa đã gây thiệt hại nặng nề cho 
quân Pháp, thắp lên ngọn lửa đấu tranh yêu nước nồng nàn.
Lúc này nhiều nhà chí sĩ yêu nước cũng đang lao tâm khổ tứ để mà tìm 
con đường giải phóng đất nước, khai mở dân trí, phát triển dân sinh. Mà 
hai ngôi sao sáng nhất trên bầu trời Việt Nam bấy giờ là cụ Phan Bội 
Châu (1867 – 1940) và cụ Phan Châu Trinh (1872 – 1926).
Phan Bội Châu là người phát động phong trào Đông Du, lập Duy Tân hội
 để sang Nhật cầu viện. Nội dung chính các hoạt động của ông là: Lập các
 hội nông, hội buôn, hội học để tập hợp quần chúng. Chọn một số thanh 
niên thông minh hiếu học, chịu được gian khổ để đưa ra học ở nước ngoài.
Đối với Phan Châu Trinh thì chủ trương cứu nước của ông là “Khai dân 
trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, đồng thời phát động phong trào Duy 
Tân. Phương thức hoạt động của phong trào là bất bạo động, công khai 
hoạt động nhằm khai hoá dân tộc, cải cách trên mọi lĩnh vực, khuyến 
khích giáo dục, phát động phong trào học quốc ngữ, mở mang công thương 
nghiệp, chấn hưng công nghệ.
Giai đoạn lịch sử này, ảnh hưởng vang dội và có quy mô rộng lớn nhất là cuộc khởi nghĩa Yên Bái do lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng
 Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Giới nghiên cứu lịch sử vẫn thường gọi đây là
 cuộc Tổng khởi nghĩa Yên Bái. Theo đó thì Việt Nam Quốc dân Đảng quyết 
định tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa đồng loạt ở một số tỉnh Bắc Kỳ (Yên 
Bái, Sơn Tây, Hưng Hoá, Lâm Thao, Phả Lại, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến 
An, Hà Nội) vào đêm 10/02/1930. Mặc dù đã chiếm và làm chủ một số tỉnh 
lỵ, nhưng sau đó quân Pháp đã phản công và truy quét nghĩa quân. Nguyễn 
Thái Học và nhiều lãnh tụ khác đã bị địch bắt. Ngày 23/3/1930 tại Yên 
Bái, Nguyễn Thái Học cùng một số đồng chí khác của ông bị xử tử trên 
đoạn đầu đài.
Chỉ 15 năm sau thì chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra. Pháp bị Nhật
 đảo chính tại Việt nam, rồi Nhật lại thua và rút quân. Đất nước lúc này
 vắng bóng quân thù. Chớp lấy thời cơ ngàn năm có một này, đảng Cộng Sản
 đã nổi lên cướp chính quyền và tuyên bố độc lập. Từ đó họ áp đặt lên 
đất nước ta thứ chủ nghĩa Cộng Sản phi nhân khiến cả dân tộc điêu tàn.
Than ôi, đúng như Đặng Dung từng than thở:
“Bần tiện gặp thời thành nghiệp dễ
Anh hùng lỡ vận hận căm đầy…”
Giành được độc lập chỉ là bước đầu, điều quan trọng nhất là xây dựng 
một đất nước tự do, dân chủ, hạnh phúc và phồn vinh. Đó mới là thứ đất 
nước cần, nhân dân chúng ta cần.
02/02/2014

 
