Trần Kỳ Trung
Tôi đọc tâm sự này của Nhà phê bình văn học, dịch giả Phạm Xuân
Nguyên mà thấy buồn cho nền văn học nước nhà. Một anh bạn hỏi tôi:
"Chiến tranh Việt Nam đã qua gần bốn mươi năm, một cuộc chiến tranh đầy
đủ bản chất khốc liệt nhất ,kể trên tất cả phương diện. Những cuộc chiến
tranh xảy ra gần đây, nếu so sánh với cuộc chiến tranh Việt Nam trước
năm 1975, chưa là gì cả, thế mà nền văn học Việt Nam không có những tác
phẩm lớn để bạn đọc trong nước và nước ngoài ngưỡng mộ, trừ cuốn " Nỗi
buồn chiến tranh" của Bảo Ninh.".
Biết nói với bạn tôi thế nào? Phải nói thẳng ra rằng,
viết về nỗi đau chiến tranh, nhất là sự mất mát to lớn của dân tộc, của
từng gia đình Việt Nam, di hại khốc liệt của cuộc chiến tranh vừa rồi,
nhiều nhà văn, nhà thơ đã viết. Nhưng... rất tiếc nhiều báo, NXB trong
nước không dám in, chỉ một lẽ đơn giản: Những tác phẩm đó nói đúng bản
chất của cuộc chiến tranh Việt Nam trước năm 1975. Thời gian càng lùi xa
càng nhận rõ điều này. Cũng còn may hiện là thời đại của intenét, nhiều
nhà văn, nhà thơ đành phổ biến những truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ...
viết tâm đắc về chiến tranh Việt Nam lên trang mạng. Thực ra đây là thế
chẳng đừng, nhưng thà như thế còn hơn không, để muốn cho bạn đọc hiểu
rằng, ở Việt Nam còn rất nhiều nhà văn, nhà thơ... trăn trở, đáu đáu một
ước muốn, một khát vọng cháy bỏng muốn nói hết, nói thẳng, nói đúng bản
chất cuộc chiến tranh Việt Nam trước 1975, để làm sao một dân tộc yêu
chuộng hòa bình như dân tộc Việt Nam cũng như nhiều dân tộc khác trên
thế giới mãi mãi được sống trong đất nước thanh bình, thực sự yêu thương
lẫn nhau, không thù hằn, oán hận, chém giết vì lý tưởng của những giai
cấp ích kỷ.
Tôi nghĩ, chắc nhà phê bình văn học, dịch giả Phạm Xuân Nguyên đến cuộc tọa đàm trên sẽ nói những ý đó.
Vậy tại sao lại cấm Ông đến!
-------------------------------------------
Phạm Xuân Nguyên - Tôi kể chuyện này
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, chủ tịch Hội Nhà Văn Hà Nội
Sáng 17/4/2013, báo Quân Đội Nhân Dân (QĐND) tổ chức cuộc tọa đàm
mang tên “Văn học VN về chiến tranh và người lính sau năm 1975 – Những
cách nhìn khác” tại trụ sở tòa soạn 7 Phan Đình Phùng, Hà Nội. Cách
khoảng mười ngày trước đó, tôi đã được nhà thơ T. là đại tá làm việc tại
báo, nhân gặp tại một cuộc ăn trưa ở nhà hàng 17 Lý Nam Đế, có nói
miệng về cuộc tọa đàm và bảo là sẽ mời anh đến tham gia, phát biểu ý
kiến. Ngày 13/4/2013, T. gửi mail cho tôi như sau:
Anh ơi, chủ đề là “Văn học VN về chiến tranh và người lính sau năm
1975-Những cách nhìn khác”. Còn câu hỏi đối thoại thì hôm đó tranh luận
mới sinh ra các vấn đề mới. Nhưng, sơ bộ mấy điều phải đạt được:
1. Đánh giá những nét cơ bản thành tựu Văn học chiến tranh sau năm 1975?
2. Đánh giá đội ngũ nhà văn nhà thơ viết về chiến tranh sau năm 1975?
3. Văn học chiến tranh sau năm 1975 tiếp tục dòng chảy thời chiến hay phát lộ một dòng chảy mới?
4. Cái nhìn của người sáng tác (tư duy sáng tác) đối với hiện thực chiến tranh và lao động nhà văn sau năm 1975 như thế nào?
5. Những cách tân nghệ thuật?
* Văn xuôi đi vào thân phận con người?
* Thơ đi vào tâm trạng cá nhân và những dằn vặt thời hậu chiến.
6. Hiện nay, khó khăn nhất của người sáng tác về đề tài chiến tranh là gì?
7. Những nhu cầu của người sáng tác, đề xuất với các cấp lãnh đạo văn nghệ.
vân vân và vân vân.
Thời gian: 8h32 phút sáng 17-4 (thứ Tư)
Chiều 16/4, lúc 4h56, T. gọi điện cho tôi nhắc là ngày mai anh nhớ
đến dự tọa đàm, anh cứ vào cổng 7 Phan Đình Phùng, lên phòng khách, sau
đó sang phòng họp, anh em mong chờ đón tiếp anh. Tôi nhận cuộc gọi này
khi đang ở nhà. Sau đó tôi đi taxi đến một cuộc gặp bạn bè. Trên xe, vào
lúc 5h42 PM, tôi nhận được cuộc gọi mới của T. báo hoãn cuộc tọa đàm
ngày mai, anh không phải đến nữa. T. cho biết lý do hoãn là vì anh T.
chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cũng được mời dự nhưng đang đi Sài Gòn,
một anh T. khác dự phòng thay anh T. kia thì ngày mai cũng bận một “talk
show” không đến được. Tôi đang mải đi nên nghe vậy cũng ừ ào. Nhưng sau
khi uống bia với bạn bè xong, tôi chợt nghĩ đến cuộc gọi nói hoãn tọa
đàm của T. thì sinh nghi. Tôi gọi lại cho T. bảo: tọa đàm là do báo QĐND
mời, chủ nhà là báo QĐND, cớ sao vì anh T. vắng mà hoãn, thế chẳng hóa
ra là xúc phạm đến những người được mời khác như tôi sao. Nếu vậy thì
đây là một điều không thể chấp nhận được, tôi sẽ nói trắng sự thật ra
cho mọi người biết. Nhưng tôi không tin là thế, chắc có điều gì khác ở
đây. Có phải đây chỉ là bày cớ để ngăn tôi đến cuộc tọa đàm không. T.
trả lời ấp úng. Tôi kiểm chứng qua nhà văn S. là người cũng được mời tọa
đàm thì biết chắc cuộc tọa đàm ngày mai vẫn có, như thế rõ ra là chỉ
tôi đã được mời nhưng đến phút chót bị ngăn cản. Tôi gọi lại T. nói
huỵch toẹt điều này thì được T. xác nhận và cho biết: anh đừng nghĩ đây
là Tổng cục Chính trị can thiệp, mà đây là một nhân vật có thế lực trong
báo đề nghị loại anh ra khỏi danh sách, không muốn anh có mặt tại cuộc
tọa đàm. Tôi hỏi: nhân vật cao nhất của báo là Tổng biên tập, thiếu
tướng N, có phải không? T. nói: không phải, anh N. đang đi công tác, em
gọi điện mãi không được. Đến nước này thì tôi chỉ biết cám ơn T. vì đã
đưa tôi vào danh sách mời tọa đàm ngay từ đầu, nhưng trong lòng rất bất
bình với cách cư xử của báo QĐND. Tối 16/4 về nhà tôi còn nhắn tin cho
T.
- Nếu mai anh vẫn đến như không có em báo thì sao nhỉ?
- Anh ơi, đừng làm khổ em thêm nữa.
- Ôi, quân đội nhân dân. Chú cứ yên tâm.
- Em tê tái từ chiều đến giờ rồi. Để mai mốt anh P.N. về, em báo cáo lại. Chắc anh N. cũng sẽ buồn và ngượng.
Chuyện chỉ là vậy. Sáng 17/4 tôi có giờ dạy cho sinh viên Khoa Viết
văn – Báo chí, trường Đại học Văn hóa Hà Nội, nhưng đã chuyển buổi dạy
sang chiều vì tính là đi dự cuộc tọa đàm tại báo QĐND. Buổi chiều lên
lớp, các em hỏi sáng thầy đi dự tọa đàm thế nào, tôi nói rõ sự tình. Các
em ngạc nhiên, không hiểu. Đấy là tôi chưa kể cho các em nghe chuyện
mười năm trước. Tháng 10/2003, báo QĐND cũng tổ chức một cuộc tọa đàm
nhan đề “Thơ hôm nay đi về đâu?” và tôi cũng được mời tham dự. Các ý
kiến phát biểu khá cởi mở, thẳng thắn tại cuộc tọa đàm đó đã được đăng
trên báo QĐND số ra ngày thứ Sáu, 31/10/2003. Báo ra và đã có những phản
ứng, đặc biệt là cho rằng những người tọa đàm đã phủ nhận thơ kháng
chiến. Nhà thơ T.A.T., người trực tiếp làm trang thứ Sáu của báo QĐND
khi đó và là người tổ chức cuộc tọa đàm, cùng Tổng biên tập báo là thiếu
tướng N.Q.T., đã phải vào Thành báo cáo Tổng cục Chính trị. Sau này anh
T. kể cho tôi nghe là khi trình bày danh sách các khách mời tọa đàm,
đến tên tôi, một sĩ quan cấp trên đã bảo anh T. là sao anh này từng bị
tù ta (!) mà các anh cũng mời. Nghe thế anh T. choáng váng, chẳng biết
phải nói sao nữa!
Toàn bộ chuyện này, tức là những câu chuyện điện đàm của T. và tôi về
việc tôi không còn được có mặt trong cuộc tọa đàm của báo QĐND ngày
17/4, diễn ra trước và trong cuộc uống bia của tôi với các bạn văn ở
quán bia Lan Chín tại phố Tăng Bạt Hổ, Hà Nội, vào chiều tối 16/4. Trong
cuộc uống này có nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm. Và bên vại bia buổi giao mùa
xuân hè, Cầm đã đọc cho bạn bè nghe bài thơ “Vô cùng” của mình:
Tất cả chúng ta thật lòng nói dối
Tất cả chúng ta áo đẫm mồ hôi
Tất cả chúng ta căn nhà chật chội
Giữa cõi vô cùng vô tận mà thôi.
Tất cả chúng ta áo đẫm mồ hôi
Tất cả chúng ta căn nhà chật chội
Giữa cõi vô cùng vô tận mà thôi.
Tất cả chúng ta đều bị theo dõi
Tất cả chúng ta sắp bị bắt rồi
Tất cả chúng ta như bầy chó đói
Ngửa mặt lên trời hóng bóng trăng rơi.
Tất cả chúng ta sắp bị bắt rồi
Tất cả chúng ta như bầy chó đói
Ngửa mặt lên trời hóng bóng trăng rơi.
Tất cả chúng ta đều không vô tội
Mỗi đêm một tờ giấy trắng mồ côi.
Mỗi đêm một tờ giấy trắng mồ côi.
Hà Nội 17.4.2013
Phạm xuân Nguyên
Phạm xuân Nguyên
Nguồn: