Trước những hành vi thể hiện quyền chủ quyền của Trung Quốc tại biển
Đông, toàn bộ khu vực biển chung quanh Hoàng Sa và vùng biển phía bắc
Trường Sa lần hồi trở thành việc "trong nhà" của Trung Quốc, thay vì một
vấn đề quốc tế. Hiện nay Trung Quốc cho phép tổ chức du lịch các đảo
Hoàng Sa, cùng lúc đuổi, bắn các tàu đánh cá của Việt Nam không cho phép
đến gần khu vực. Nhưng phản kháng chiếu lệ của Việt Nam không có hiệu
quả, trong lâu dài tính hợp pháp các hành vi "effectivité" của Trung
Quốc được khẳng định.
Gần đây Phi đã mở mặt trận pháp lý với Trung Quốc tại Scarborough và
Trường Sa. Hành động này sẽ làm sáng tỏ những đòi hỏi của Trung Quốc
đồng thời khẳng định "các quyền" của Phi tại các "chủ thể" tranh chấp.
Việt Nam có lợi trong việc kiện tụng này. Tại HS, Việt Nam cần có động
thái tương tự. Việt Nam có thể vịn nhiều lý do khác nhau, ngoài tranh
chấp chủ quyền, còn có quan điểm đối nghịch của hai bên về thềm lục địa,
về cột nước, về quyền khai thác tài nguyên (như đánh cá)… Việt Nam cần
xúc tiến việc "pháp lý hóa" những lãnh vực tranh chấp ở Hoàng Sa nhằm
tạo thế chủ động "khoanh vùng tranh chấp".
Muốn làm việc này Việt Nam phải có một cơ sở pháp lý vững chắc về chủ
quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Trong bài viết ở đây và ở đây, tác giả
đã vạch ra những kẻ hở trong hồ sơ pháp lý của Việt Nam. Trong một thời
gian dài 3 thập niên, nước VNDCCH, tức quốc gia tiền nhiệm của quốc gia
Việt Nam hiện nay, đã có những hành vi, minh thị và ám thị, từ bỏ chủ
quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Bài viết này, nhân cận kề
38 năm ngày đánh dấu sụp đổ Sài Gòn 30-4-1975, trình bày một mảng khác
của Công pháp quốc tế, các vấn đề về "kế thừa" và "tính liên tục quốc
gia". Đây cũng là các yếu tố pháp lý mà Việt Nam cần tuân thủ.
Cần khẳng định: không có danh nghĩa chủ quyền pháp lý hỗ trợ, Việt
Nam không thể bảo vệ Trường Sa nếu chỉ dựa vào sức mạnh quân sự. Nguy cơ
mất trắng biển Đông là có thật.
Lấy lại Hoàng Sa là thiên nan vạn nan nhưng hạn chế những tai hại của
Hoàng Sa là việc làm có thể. Ít nhứt Việt Nam phải chứng minh "quyền
lịch sử" và sự liên tục quốc gia – cho dầu trên danh nghĩa - ở nơi này
bằng cách cho thấy quốc gia Việt Nam hiện tại và các quốc gia tiền nhiệm
chưa bao giờ có ý định từ bỏ nó.
I.
"Kế thừa quốc gia [i]" và "liên tục quốc gia" là những khái niệm
thuộc Quốc tế công pháp. "Kế thừa" quốc gia là sự thay thế một quốc gia
bởi một quốc gia khác ở các quan hệ quốc tế, về những vấn đề liên quan
đến lãnh thổ. Nói đến "liên tục quốc gia" là nói đến tính pháp nhân của
một quốc gia có luôn được tồn tại (trước các định chế quốc tế), bất chấp
những thay đổi về lãnh thổ, dân số, hệ thống chính trị-pháp lý và quốc
hiệu hay không.
Việc kế thừa quốc gia được đặt ra trong những tình huống : 1/ quốc
gia giải thể, 2/ chuyển nhượng, tức chuyển giao vùng lãnh thổ của quốc
gia này cho một quốc gia khác, 3/ ly khai, tức một lãnh thổ tách rời tự
thành lập một quốc gia khác và 4/ những trường hợp thống nhất của hai
hay nhiều quốc gia.
Kế thừa quốc gia là thủ tục pháp lý nhằm tái xác định, hay phủ định,
trách nhiệm của quốc gia kế thừa đối với vùng lãnh thổ mới, cũng như
hiệu lực các kết ước, hay các tuyên bố của nhà nước tiền nhiệm đã thể
hiện trước các định chế quốc tế, hay đối với các quốc gia khác.
II.
Vấn đề "kế thừa" và tư cách pháp nhân của quốc gia Việt Nam sẽ bị đặt
lại ở ba thời điểm : 1) Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh tháng 8-1945,
2) sau khi hiệp định Genève 1954 được ký kết và 3) sau ngày Sài gòn sụp
đổ 30-4-1975.
Các thời điểm này quan trọng vì Việt Nam có những thay đổi lớn lao về lãnh thổ và chế độ chính trị.
Vấn đề kế thừa và tính liên tục giữa các nhà nước Việt Nam từ thời
nhà Nguyễn, thời Pháp thuộc, cho đến thời kỳ các quốc gia ở miền Nam dễ
dàng chứng minh. Chỉ khó khăn nhận diện tư cách pháp nhân của quốc gia
Việt Nam ở khoản thời gian Nhật chiếm Việt Nam (10-3-1945) cho đến khi
Quốc gia Việt Nam được thành hình (1948). Khoản thời gian này tuy ngắn
nhưng quan trọng, cần làm sáng tỏ[ii], vì hiện hữu hai "quốc gia" Việt
Nam: "Đế Quốc Việt Nam" và "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa". Tư cách pháp
nhân của hai quốc gia này không rõ rệt.
Sau khi Nhật "đảo chánh" Pháp, chủ quyền (toàn thể vùng Đông Dương)
trước kia thuộc Pháp, lọt vào tay Nhật. Nhưng sau khi Nhật thua trận,
theo qui định của phe chiến thắng là Đồng Minh tại Hội nghị Potsdam
1945, các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm đóng trước đó là trái phép,
phải tuyên bố từ bỏ. Điều này có nghĩa, các chế độ chính trị do Nhật đặt
ra tại các vùng lãnh thổ do Nhật chiếm trước đó là không có tư cách
pháp lý (trường hợp Mãn Châu quốc với vua Phổ Nghi, hay Việt Nam với Bảo
Đại v.v...). Các vùng lãnh thổ này sẽ do Đồng Minh quản lý và quyết
định số phận (ngoại trừ các vùng lãnh thổ đã được giải quyết số phận
trước).
VNDCCH được thành lập qua "cuộc Cách mạng tháng Tám". Phe cộng sản
Việt Nam do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo cho rằng đã đánh Nhật, "dành chính
quyền" từ tay Nhật.
Điều này không đúng. Nhật đầu hàng đã giao toàn bộ thẩm quyền của đế
quốc tại các thuộc địa cho đại diện của Đồng Minh. Ông Hồ không thể
"cướp chính quyền" từ tay Nhật vì không thể cướp cái mà Nhật không còn
nữa.
VNDCCH không có "tư cách pháp nhân" của một quốc gia.
Hội nghị Potsdam 1945 giữa các nước Đồng Minh qui định cho quân đội
Trung Hoa có trách nhiệm giải giới quân Nhật tại Việt Nam ở những vùng
phía bắc vĩ tuyến 16, cho quân đội Anh có trách nhiệm giải giới quân
Nhật tại Việt Nam ở vùng phía nam (vĩ tuyến 16). Sở dĩ không có mặt Pháp
(dẫu rằng Pháp là một bên trong phe chiến thắng thuộc khối Đồng Minh)
vì Hoa Kỳ có ý muốn trả lại độc lập cho tất cả các nước thuộc địa cũ.
Như thế, trong khoản thời gian 1945-1948, Việt Nam không có đại diện
chính thức, chủ quyền quốc gia Việt Nam do Đồng minh quản lý. Ta có thể
quan niệm, Pháp [iii] là đại diện của Đồng minh vào Việt Nam để thực thi
tinh thần Hội nghị Potsdam. Tư cách pháp nhân của quốc gia Việt Nam có
thể xem là không bị mất lại vào tay Pháp mà chỉ bị "ngưng đọng".
III.
Ngày 27-5-1948 Quốc gia Việt Nam thành hình với Chính phủ Trung ương
Lâm thời Việt Nam được thành lập do Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng, Bảo
Đại làm "Hoàng Đế, Quốc trưởng". Việc này dựa trên kết ước Elysée, ngày 8
tháng 3 năm 1949, giữa Tổng thống Vincent Auriol và Bảo Đại.
Nội dung kết ước Elysée có nhiều điều cần bàn cãi, nhưng điểm chính
là Pháp công nhận Việt Nam "độc lập" và "thống nhứt" ba miền.
Quốc gia Việt Nam của của Bảo Đại đã được quốc tế công nhận rộng rãi
[iv]. Năm 1951, nhờ sự ủng hộ của hoa Kỳ, Quốc gia Việt Nam được nhìn
nhận là một nước độc lập, có tuyên bố chiến tranh với Nhật, tham gia Hội
nghị San Francisco để ký hòa ước với Nhật. Nhật đã cam kết bồi thường
chiến tranh cho Việt Nam (qua một số công trình xây dựng).
Các việc này khẳng định tư cách pháp nhân của Quốc gia Việt Nam trên
trường quốc tế. Điều quan trọng, nhân dịp Hội nghị ông Trần Văn Hữu,
nguyên thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại giao, đã tuyên bố trước Hội
nghị chủ quyền lâu đời của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa đã bị Nhật chiếm đóng trái phép trong thời kỳ chiến tranh. Ông thay
mặt quốc gia Việt Nam tuyên bố quyết định thâu hồi hai vùng lãnh thổ này
về lại quốc gia Việt Nam. Tuyên bố này không gặp phản đối của nước nào
nào tại hội nghị.
Tại Hoàng Sa và Trường Sa, chủ quyền của Việt Nam là liên tục, mang
tính kế thừa. Vấn đề kế thừa và tính liên tục quốc gia đã thể hiện xuyên
suốt các thời kỳ: nhà Nguyễn – thuộc Pháp – thuộc Nhật (tháng 3-1945 –
tháng 8-1945) – Đồng Minh quản lý (tháng 8-1945 – tháng 5-1948) – Quốc
gia Việt Nam.
Nhà nước Phong kiến Việt Nam đã khám phá, khai thác tài nguyên và
hành sử chủ quyền trên các đảo thuộc hai quần đảo này từ thế kỷ 18, lúc
chưa có đế quốc nào bén mảng tới. Đến thời Pháp thuộc, nhà nước bảo hộ
Pháp đã thay mặt Việt Nam long trọng tuyên bố trước cộng đồng quốc tế
việc sát nhập các đảo Hoàng Sa, sau đó các đảo Trường Sa vào lãnh thổ
Việt Nam. Tại hội nghị San Francisco 1951, Quốc gia Việt Nam đã tái
khẳng định chủ quyền này trước cộng đồng quốc tế.
Cho đến ngày 30-4-1975, Việt Nam vẫn giữ được danh nghĩa chủ quyền ở
Hoàng Sa (de jure) và Trường Sa, mặc dầu Hoàng Sa bị Trung Quốc xâm lăng
năm 1974.
IV.
Ở miền Bắc, từ tháng 12-1946 đến tháng 7 năm 1954 là khoảng thời gian
gọi là "chín năm kháng chiến", hay còn gọi là "cuộc chiến Đông dương
lần thứ nhứt". Chính phủ của ông Hồ tuyên bố "tiêu thổ kháng chiến", phá
bỏ thành thị, làng xã, rút vào rừng thành lập các khu kháng chiến.
Chính phủ của ông Hồ trở thành một "chính phủ kháng chiến" thực sự với ý
nghĩa của nó.
Hoạt động của "chính phủ kháng chiến" không có điều nào đáng ghi
nhận, cho đến khi Hồng quân của Mao Trạch Đông chiến thắng phe Quốc dân
đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Vấn đề kháng chiến chống Pháp của
Việt Minh đi vào khúc quanh thuận lợi vì được sự trợ giúp tận tình của
CSTQ.
Cuối cùng "kháng chiến thành công", Pháp thua Việt Minh ở trận Điện
Biên Phủ, phải ký hiệp định Genève tháng 7 năm 1954. Chính phủ VNDCCH do
ông Hồ lãnh đạo vì vậy lấy được một nửa đất nước, tính từ vĩ tuyến 17.
Chính phủ VNDCCH là một chính phủ hiện hữu trên thực tế (de facto),
được khối cộng sản công nhận. Quốc gia Việt Nam, do chính phủ VNDCCH đại
diện, quan niệm Việt Nam là một quốc gia duy nhứt, thống nhứt ba miền
Bắc, Trung, Nam, theo như qui định của hiệp định Genève 1954. Việc phân
chia đất nước chỉ là tạm thời. VNDCCH không có đại diện nào tại các định
chế quốc tế thuộc LHQ. Điều đáng ghi nhận là VNDCCH tuyên bố đoạn tuyệt
với quá khứ của các nhà nước phong kiến và thực dân. VNDCCH là một quốc
gia "mới", lãnh thổ có là do chiếm được, không do kế thừa. Điều ghi
nhận khác, ngày 14-9-1958, nhà nước VNDCCH có viết công hàm nhìn nhận
các tuyên bố về lãnh thổ và bề rộng lãnh hải của Trung Quốc, theo đó
minh thị nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Công hàm này là trở ngại pháp lý của nhà nước Việt Nam hôm nay trong hồ
sơ Hoàng Sa và Trường Sa.
V.
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được khai sinh ngày 20-12-1960,
theo nghị quyết của của Đại hội đảng toàn quốc lần thứ ba của đảng CSVN
(lúc đó là đảng Lao Động), do bộ Chính trị đảng CSVN và Trung ương cục
miền Nam lãnh đạo. Vì vậy thực thể chính trị này và VNDCCH có quan hệ
mật thiết.
Mục tiêu của Mặt Trận là: "« đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đảng
phái, đoàn thể, tôn giáo và nhân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng
chính trị để đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn
Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, để thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình,
trung lập tiến tới hòa bình thống nhứt tổ quốc."
Cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân 1968, thực hiện theo một nghị quyết
khác của đảng CSVN, là một thành công chính trị lớn lao. Thế giới qua
cuộc tấn công này biết được sự hiện hữu của MTGPMN. Chính phủ Cách mạng
Lâm thời được thành lập ngày 8-6-1969, dĩ nhiên được VNDCCH cùng các
nước trong khối cộng sản công nhận.
Sự hiện hữu của CPCMLT ảnh hưởng đến tính chính thống của chính phủ
VNCH trước các định chế quốc tế, làm yếu đi tư thế đại diện một nước
Việt Nam duy nhứt.
Chình Phủ Cách Mạng Lâm Thời (CPCMLT) được nhìn nhận là một thực thể
chính trị có tư cách pháp nhân. Bốn bên Mỹ, CS miền Bắc, VNCH và CPCMLT
ký kết hiệp định Paris 1972. Hoa Kỳ bắt đầu rút quân khỏi miền Nam đồng
thời ngưng viện trợ quân sự cho VNCH. 30-4-1975 VNCH sụp đổ.
Nhưng cho đến khi sụp đổ, VNCH vẫn là đại diện duy nhứt cho quốc gia Việt Nam tại các tổ chức quốc tế.
VI.
Ngày 30-4-1975, nhà nước VNCH sụp đổ, chính quyền mất vào tay Chính
phủ cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN). Chính phủ
mới tuyên bố kế thừa VNCH tại các định chế quốc tế thuộc LHQ[v]. Việc kế
thừa thể hiện dễ dàng qua việc thay đổi "tên nước" VNCH thành CHMNVN.
Nhưng về vấn đề kế thừa lãnh thổ, không thấy chính phủ CMLT tuyên bố
lời nào về chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa. Trong khi việc phải lên
tiếng khẳng định chủ quyền là một điều bắt buộc khi quốc gia có thay đổi
chính thể do biến động chính trị (do đảo chánh, cách mạng …), hay một
quốc gia mới được khai sinh (do thống nhất hai quốc gia hay hai vùng
lãnh thổ, quốc gia ly khai…).
Quốc tế cần phải biết thái độ của chính phủ mới về chủ quyền của các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc lên tiếng không chỉ là cần thiết mà
còn là bắt buộc, nếu Việt Nam muốn khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo
này.
Về vấn đề Hoàng Sa, CPCMLT có lên tiếng một lần duy nhứt trong khoản
thời gian Trung Quốc xâm lăng Hoàng Sa của Việt Nam (tháng giêng 1974),
nội dung yêu cầu tranh chấp cần được giải quyết theo đàm phán. Phía
VNDCCH thì im lặng trong khi phía Liên Xô lên tiếng phản đối.
Thái độ "im lặng[vi]" của CPCMLT ở vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa không
gây ngạc nhiên, vì đó cũng là thái độ của VNDCCH từ khi lập quốc
(2-9-1949) cho đến cuối thập niên 70. Việt Nam chỉ lên tiếng sau khi có
bất đồng với Trung Quốc.
Vấn đề kế thừa về lãnh thổ (Hoàng Sa và Trường Sa) do vậy không đặt
ra. Cuộc chiến 54-75 được phía CPCMLT gọi là cuộc chiến "giải phóng",
tức cuộc chiến đánh đổ (phủ nhận) chính phủ tiền nhiệm. CHCMLT xem
chính phủ tiền nhiệm là "ngụy", là "quân bán nước", "làm tay sai của
quân cướp nước" (tức đế quốc Mỹ). Do đó không thể có vấn đề "kế thừa"
lãnh thổ.
Làm thế nào có việc kế thừa "bọn cướp nước và bè lũ bán nước"? mà chỉ
có vấn đề "giải phóng", "đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào", chiếm lại đất đai
và dành lại dân chúng. Một số đảo ở Trường Sa đã được thể hiện như thế
(de facto).
Quốc gia tên gọi "Việt Nam Cộng Hòa" là một quốc gia bị giải thể. Tư cách pháp nhân VNCH bị xóa bỏ, không có thừa kế.
VII.
Cho đến 30-4-1975, VNDCCH vẫn không xin gia nhập vào bất kỳ các định
chế quốc tế nào để giữ nguyên tắc "một quốc gia Việt Nam duy nhứt", theo
qui định của hiệp định Genève 1954 (cũng như theo nội dung hiến pháp).
Nguyên tắc này chỉ bị hủy bỏ khi VNDCCH quyết định xin gia nhập O.M.S
như là "một thành viên chính thức" vào ngày 10 tháng 4 năm 1975. Việc
này được đại hội O.M.S chấp nhận ngày 7-5-1975.
Như thế từ ngày 9-5-1975 hiện hữu hai quốc gia Việt Nam trên trường
quốc tế, được quốc tế nhìn nhận: VNDCCH và CHMNVN. Việc thống nhứt đất
nước như thế là thống nhứt giữa hai quốc gia.
Ngày 2-7-1976 hai nước VNDCCH và CHMNVN hiệp thương thống nhứt đất
nước. Từ nay quốc gia Việt Nam chỉ có một: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam.
Câu hỏi đặt ra: Quốc gia CHXHCNVN đã kế thừa chủ quyền của Việt Nam
tại Hoàng Sa và Trường Sa của các quốc gia tiền nhiệm như thế nào?
Như đã viết, VNDCCH chủ trương có hai nước Việt Nam sau 30-4-1975,
qua việc VNDCCH xin gia nhập các định chế quốc tế. Quyết định gia nhập
của nước VNDCCH vào các định chế quốc tế là khẳng định tư cách một nước
Việt Nam khác.
Sau khi thống nhứt đất nước, đại diện của Việt Nam tại các định chế
quốc tế là đại diện của nước VNDCCH vừa mới gia nhập trước đó. Tính liên
tục quốc gia đã được xác định: từ VNDCCH chuyển sang CHXHCNVN.
Nước CHXHCNVN là một quốc gia Việt Nam mới. Đoạn tuyệt với mọi nhà
nước thực dân, phong kiến, hay chính quyền Ngụy ở Sài Gòn. Lãnh thổ của
nước CHXHCNVN là lãnh thổ chiếm được từ tay Pháp (1954) và Mỹ, Ngụy
(1975), không phải là lãnh thổ kế thừa.
Tinh liên tục quốc gia đã được thể hiện: di sản của VNDCCH được
chuyển sang CHXHCNVN. Chính quyền CHXHCNVN kế thừa di sản của chính phủ
VNDCCH. Việc này càng rõ rệt hơn khi ta nhận thấy đảng lãnh đạo nhà nước
VNDCCH trước kia và đảng lãnh đạo nhà nước CHXHCNVN hôm nay là một:
đảng CSVN.
Vấn đề kế thừa chính phủ CMLT cũng không đặt ra. Những người lãnh đạo
chính phủ này cũng là nhân sự đảng CSVN. Tức cả hai nước VNDCCH và
CHMNVN, nhân sự lãnh đạo đều nằm trong một đảng. Cả hai thực thể chính
trị, có tư cách pháp nhân, thật ra chỉ do một đảng lãnh đạo.
Việc kế thừa sẽ đặt lại các vấn đề về bang giao quốc tế. Nước
CHXHCNVN, kế thừa VNDCCH, có nghĩa vụ tôn trọng những kết ước, những
tuyên bố đơn phương về một vấn đề quốc tế... của nhà nước tiền nhiệm
VNDCCH.
Quan điểm của CHXHCNVN về Hoàng Sa và Trường Sa là quan điểm của
VNCH. Bạch thư công bố 1979 cho thấy việc này. Quan điểm này mâu thuẩn
với quan điểm quốc gia tiền nhiệm VNDCCH.
Trên quan điểm pháp lý, CHXHCNVN không thể kế thừa cùng lúc hai quan
điểm đối nghịch thuộc về hai quốc gia tiền nhiệm (CVDCCH và VNCH, nếu
xem VNCH là quốc gia tiền nhiệm).
VIII.
Như vậy, khuyết điểm lớn về pháp lý của quốc gia Việt Nam hiện nay là
đã kế thừa di sản của VNDCCH. Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng cùng các
động thái khác của nhà nước VNDCCH trong nhiều thời kỳ đã củng cố chủ
quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa. Nhiều người hiện nay cố
tìm cách diễn giải nội dung công hàm 1958 nhằm hạn chế hiệu lực của nó
nhưng đều không thuyết phục. Công hàm 1958 là một tuyên bố đơn phương,
có hiệu lực ở phạm vi quốc tế. Người ta không thể hóa giải hiệu lực một
văn bản quốc tế bằng các điều luật quốc gia. Cũng không thể diễn giải
theo lối "người ta không thể cho cái mà người ta không có". Nguyên tắc
"quốc gia Việt Nam duy nhứt" theo qui định của hiệp định Genève không
cho phép nói vậy. Bên nào cũng có trách nhiệm như nhau trong việc bảo vệ
đất nước. Cũng không thể yêu cầu nhà nước « giải thích » nội dung công
hàm. Nhà nước CHXHCNVN đã lên tiếng về nội dung công hàm này. Ông Phạm
Văn Đồng, tác giả công hàm, sau đó là ông Nguyễn Mạnh Cầm nguyên bộ
trưởng bộ ngoại giao, cũng đã giải thích nội dung.
Chỉ có phương án kế thừa VNCH (và đoạn tuyệt với di sản VNDCCH) mới
có thể giúp quốc gia Việt Nam thể hiện tính liên tục của quốc gia Việt
Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Việc kế thừa đáng lẽ là quá trình hòa
giải dân tộc, lý ra phải được thực hiện từ lâu, với một trình tự pháp lý
được xác định rõ rệt qua một bộ luật về hòa giải quốc gia.
Kế thừa thế nào?
IX.
Nhà nước CSVN bỏ tên nước, đặt lại tên nước, thí dụ: Cộng Hòa Việt
Nam, thay đổi quốc kỳ, quốc ca, hiến pháp… thay đổi tất cả những gì dính
líu đến VNDCCH và CHXHCNVN để lập một nền cộng hòa mới, tổ chức bầu cử
tự do, lập chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân; đoạn tuyệt với
quá khứ sai lầm của VNDCCH.
Nhà nước mới, trên nền tảng dân chủ, thảo luận về một bộ luật "hòa
giải dân tộc", trong đó qui định phương cách phục hồi danh dự cũng như
việc đền bồi xứng đáng cho các thành phần quân nhân công chức VNCH nạn
nhân của chính sách học tập cải tạo. Lập ra điều luật cấm sử dụng tiếng
"ngụy" đối với những người thuộc chế độ cũ. Đền bồi cho các nạn nhân do
cải tạo công thuơng nghiệp, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới; làm luật
phục hồi danh dự (cho người quá vãng) và đền bồi tương xứng cho nạn nhân
của cộng sản như vụ Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án "xét
lại chống đảng".v.v… Nếu những người này đã mất thì đề bồi cho con cháu
của họ. Cho tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ, không phân biệt nam bắc, dân
tộc kinh, thuợng, không phân biệt cuộc chiến 1975, 1979 hay cuộc chiến
với Kampuchia v.v…
Đứng trên quan điểm đó, một nước Việt Nam mới, dân chủ, hoàn toàn đủ
tư cách và tính chính thống, long trọng tuyên bố trước cộng đồng thế
giới kế thừa di sản VNCH. Như thế Việt Nam khẳng định chủ quyền tại
Hoàng Sa và Trường Sa, từ đó làm căn bản giải quyết các tranh chấp chủ
quyền Hoàng Sa và Trường Sa bằng một trọng tài quốc tế.
Trên tinh thần đó, với sự hưởng ứng của toàn khối dân tộc, Việt Nam
sẽ đứng ở thế mạnh, hay ở thế không ai có thể bắt nạt, toàn dân một lòng
chắc chắn đủ khả năng để tự bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của tổ tiên để
lại.
Dự án thay đổi hiến pháp 1992 hiện nay có thể là một dịp để bày tỏ thiện chí hòa giải và kế thừa.
Trương Nhân Tuấn
___________________________________
[i] "Quốc gia – l’Etat" được cấu thành do ba yếu tố: 1) người dân, 2)
lãnh thổ và 3) một chính phủ. Việc "công nhận quốc gia" là quan trọng
trong quan hệ quốc tế, vì nó xác định sự hiện hữu (tư cách pháp nhân)
một quốc gia trên sân khấu quốc tế. Thủ tục công nhận thể hiện bằng việc
"thiết lập bang giao", qua các việc trao đổi lãnh sự, ký kết các hiệp
ước, hay bằng một tuyên bố đơn phương giữa các quốc gia. Việc công nhận
quốc gia là các bên chấp nhận các yếu tố đặc thù về công dân, về lãnh
thổ và về chính phủ của các bên. Việc công nhận có thể mang tính pháp lý
"de jure", tức công nhận quốc gia như là chủ thể duy nhứt, bình đẳng về
độc lập và chủ quyền trước Công pháp quốc tế. Hoặc "de facto", một hình
thức công nhận tạm thời cho những quốc gia đang thành hình.
"Quốc gia", theo qui ước của Công pháp quốc tế, là thực thể pháp nhân
duy nhứt, bất khả phân. Đại diện quốc gia ở Liên hiệp quốc và các định
chế quốc tế thuộc thẩm quyền của LHQ chỉ có một. Trường hợp quốc gia bị
phân chia (có hai vùng lãnh thổ khác biệt, có hai nhóm dân chúng khác
biệt mặc dầu có cùng quốc tịch, do hai chính phủ khác biệt lãnh đạo),
chỉ có một vùng lãnh thổ duy nhứt được phép đại diện cho quốc gia ở LHQ
(và các định chế quốc tế khác thuộc LHQ). Thí dụ: quốc gia Việt Nam sau
hiệp định Genève 1954 là một "quốc gia duy nhứt", bị chia cắt thành hai
vùng lãnh thổ: Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
ở miền Bắc. Không bên nào được nhìn nhận là đại diện chính thức quốc
gia Việt Nam tại LHQ. Tuy nhiên, ở các định chế quốc tế thuộc LHQ, đại
diện chính thức cho quốc gia Việt Nam là VNCH.
[ii] Ngày 10 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp, chiếm Đông Dương.
Đại diện Nhật Hoàng tiếp xúc với ông Bảo Đại đề nghị trả lại độc lập cho
Việt Nam. Ngày 12 tháng 3 năm 1945 Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập,
lấy quốc hiệu là "Đế Quốc Việt Nam", bãi bỏ các hiệp ước bảo hộ đã ký
trước đây với Pháp. Ngày 17-4-1945 chính phủ Trần Trọng Kim thành lập.
Nhưng chỉ vài tháng sau, 16 tháng 8 năm 1945, Nhật tuyên bố đầu hàng
Đồng Minh. Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Mặt trận Việt Minh làm "cách mạng".
Một chính phủ "lâm thời" được Hồ Chí Minh thành lập tại Hà Nội. Ngày 25
tháng 8 Bảo Đại giao ấn, kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện Ủy ban giải
phóng, tuyên bố thoái vị. Quốc gia gọi là "Đế Quốc Việt Nam" kết thúc và
quốc gia "Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa" ra đời.
[iii] Việc quân Đồng minh vào Việt Nam giải giới quân Nhật không được thực hiện theo tinh thần của Hội Nghi Potsdam 1945.
Bởi vì, tại Nam Kỳ (Cochinchine) là "nhượng địa" của Pháp, do Việt
Nam nhượng cho Pháp qua các hòa ước 1862, 1874… vì thế Anh nhượng lại
cho Pháp công việc giải giới quân Nhật có thể với hậu ý trả lại vùng đất
này về cho Pháp.
Trong khi ở phía bắc, quân Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch vào Việt
Nam chỉ sau "cách mạng tháng tám" vài ngày. Mục tiêu của họ là "giải
giới quân Nhật" và trao trả chính quyền lại cho người đại diện nhân dân
Việt Nam, theo tinh thần của Hội nghị Potsdam. Quân Trung Hoa vào Việt
Nam tước khí giới của Việt Minh, giao chính quyền cho các đảng phái
(VNQDD, DV, VNCMDMH). Lo ngại mất quyền, Hồ Chí Minh hô hào "tuần lễ
vàng", quyên góp vàng bạc trong dân để có phương tiện đút lót cho các
tướng Trung Hoa là Tiêu Văn và Lư Hán. Nhờ việc "lo lót" này các vị
tướng Tàu ngả về ủng hộ Hồ Chí Minh, làm áp lực lên các đảng phái khác,
ép thành lập "Chính phủ Liên hiệp Lâm thời" ngày 25 tháng 12 năm 1945.
Chính phủ này gồm có đại diện của các phe phái tại Việt Nam. Quốc hội
cũng được tổ chức qua cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946. Ngày 2 tháng
3, Quốc hội nhóm họp, tuyên bố "Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến" thành
hình, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch và Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch.
Đáng lẽ thực thể VNDCCH với Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến có tư
cách pháp nhân vì thực thể này sinh ra từ ý nguyện của phe Đồng Minh:
trao trả nền độc lập Việt Nam cho đại diện của nhân dân Việt Nam. Nhưng
việc Pháp "đi đêm" với Tưởng Giới Thạch, đề nghị trao đổi quyền lợi trả
miền bắc lại cho Pháp. Vấn đề tồi tệ thêm khi ông Hồ bắt được tin này,
lén liên lạc với Pháp để tìm thỏa ước, mục đích dĩ nhiên là để được xem
là đại diện chính thức của Việt Nam (nhằm loại các địch thủ chính trị
khác như VNQDD, DV…). Ngày 28-2-1946 Pháp và Trung Hoa ký kết ước Trùng
Khánh thì ngày 6 tháng 3 ông Hồ cũng ký với Pháp một hiệp ước gọi là
"hiệp ước sơ bộ". Theo đó Pháp công nhận Việt Nam là một nước "tự do"
nằm trong Liên bang Đông dương và Liên hiệp Pháp.
Hiệp ước sơ bộ không hề nói một nước Việt Nam độc lập mà chỉ nói một
nước "Việt Nam tự do" thuộc "Liên bang Đông dương" và khối "Liên hiệp
Pháp". Tức ông Hồ chấp nhận "quốc gia" Việt Nam, thực ra là "tiểu bang"
hay "xứ", do chính phủ ông lãnh đạo, nằm trong Liên bang Đông Dương, có
qui chế pháp lý tương đương với xứ Bắc Kỳ.
Việc này cũng kết liễu tính chính thống của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Sau khi bị chỉ trích "rước Pháp vào Việt Nam", ông Hồ cố gắng thay
đổi thực tế này qua các hội nghị tại Đà Lạt và Fontainebleau, nhưng đều
thất bại. Chính phủ của ông Hồ rút khỏi Hà Nội và bước vào cuộc kháng
chiến, bắt đầu từ tháng 12 năm 1946. Ông Bảo Đại phê ông Hồ rằng: "Sau
thất vọng ở Fontainebleau, (Việt Minh) chỉ còn giữ được uy tín bằng cách
đưa cả nước vào biển máu."
[iv] Quốc gia Việt Nam được chấp thuận là đại diện của nước Việt Nam
duy nhứt (và thống nhứt ba miền), gia nhập vào các tổ chức quốc tế như
sau: Tổ chức Y tế Quốc Tế (l'Organisation mondiale de la Santé -
O.M.S.), Tổ chức Lao động Quốc tế (l'Organisation internationale du
Travail - O.I.T.), Tổ chức của Liên Hiệp Quốc về Lương thực và Nông
nghiệp (l'Organisation des Nations Unies pour l'alimentation et
l'agriculture - F.A.O.), Tổ chức của Liên Hiệp Quốc về Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa (l'Organisation des Nations Unies pour l'éducation, la
science et la culture - U.N.E.S.C.O.), Liên hiệp Quốc tế về Viễn Thông
(l'Union internationale des Télécommunications - U.I.T), Liên hiệp Bưu
chính Thế giới (l'Union postale universelle - U.P.V.)…
[v] Bộ trưởng bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời là bà
Nguyễn Thị Bình. Sau khi VNCH sụp đổ, bà Bình đã có những động thái
hướng đến các tổ chức quốc tế nhằm kế thừa danh nghĩa của VNCH đại diện
cho quốc gia Việt Nam. Ngày 7-5-1975, một điện tín từ Bộ ngoại giao của
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã gởi đến O.M.S, cùng lúc với các định chế
quốc tế khác, nội dung tóm lược như sau:
"Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thông báo đã kiểm soát hoàn
toàn lãnh thổ Việt Nam. Chế độ cũ ở Sài Gòn đã sụp đổ. Chính phủ Cách
Mạng lâm thời là người duy nhứt có thẩm quyền, thực sự đại diện dân
chúng miền Nam, có tính chính thống để đại diện miền Nam Việt Nam tại
O.M.S cũng như các định chế quốc tế khác."
Việc "kế thừa" VNCH của CPCMLT tại các định chế quốc tế không gặp khó
khăn, chỉ đơn giản là việc "đổi tên nước", tại UNESCO vào tháng 7
-1975, U.I.T vào tháng 2 năm 1976.
[vi] Theo thông lệ quốc tế, người ta thường xem việc một quốc gia giữ
yên lặng trước một động thái của một quốc gia khác là không có ý kiến
(hay mặc nhiên đồng thuận) về động thái đó.