Lưu Hà Sĩ Tâm
Cái
mốc ban đầu của 3 tháng, mà Đảng và Quốc hội dành cho nhân dân góp ý
vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, đã sắp đến. Nhờ ý kiến từ nhân dân,
cái mốc đã được cho phép dời đến hết tháng 9/2013. Chúng ta cảm nhận
được sức mạnh tiềm ẩn từ những luồng ý kiến và thông điệp mới mẻ, xuất
phát từ trong dân gửi đến Đảng và Quốc hội. Tính mới mẻ thu hút sự quan
tâm chú ý, là bởi hàm lượng trí tuệ cao, tạo nên sự khác biệt trên diện
rộng cũng như tầm cao về khoa học kinh tế – xã hội – công nghệ so với tư
duy lý luận truyền thống, bởi sự thẳng thắn dũng cảm của từng cá nhân
cũng như của các giới trong xã hội. Đó là nói về phía quần chúng mà Đảng
vẫn đang lãnh đạo. Còn khi đã có rất nhiều ý kiến và thông điệp từ lòng
dân, khác với ý Đảng, thì Đảng sẽ chọn “phương pháp cách mạng” nào đối
với quần chúng: thuyết phục hay khuất phục?
Đảng muốn thuyết phục quần chúng, nhưng bất khả thi
Để
thuyết phục quần chúng, Đảng phải đóng vai trò của người thuyết phục.
Đối với người được thuyết phục là quần chúng, để tăng cường khả năng
thuyết phục, người thuyết phục cần có thế mạnh 4P, đó là: Power,
Positioning, Performance, Politeness.
Power nghĩa
là sức mạnh/quyền lực (đối với quần chúng). Trong thời kỳ 1930 – 1975,
đối với quần chúng mà khát vọng khi ấy là đổi đời nhờ giành được độc lập
dân tộc và thống nhất đất nước, và cần dùng đến bạo lực của chuyên
chính, thì Đảng tỏ ra có sức mạnh của lực lượng lãnh đạo (trong từng
thời kỳ nhất định), cho dù số lượng Đảng viên không nhiều. Đó là nhờ
chất lượng của đảng viên, nhờ kỷ luật và tính chặt chẽ của tổ chức, nhờ
phương pháp sống và làm việc cùng quần chúng, nhờ Đảng không tìm lợi ích
nào khác ngoài lợi ích của quần chúng. Tình hình đó giờ đây đã biến
chuyển theo xu hướng ngược lại. Tuy là Đảng tìm cách gia tăng số lượng
đảng viên bằng mọi cách, tuy là Đảng cố tình để có quyền lực toàn diện
và tuyệt đối, nhưng sức mạnh thực sự của Đảng đối với quần chúng đã và
đang bị sa sút nghiêm trọng. Hơn nữa, sức mạnh của Đảng, biểu hiện bằng
sự ngạo mạn trước sự sợ hãi của quần chúng (do bị đe dọa và đàn áp không
nương tay), chỉ là sức mạnh của “voi” mà quần chúng phải “tránh”, nên
chỉ có giá trị ngắn hạn mà thôi.
Positioning là
khả năng định vị (trong tâm trí và tình cảm của quần chúng). Đã có
những giai đoạn trước đây, Đảng đạt được điều đó ở mức độ nhất định.
Nhưng gần 40 năm qua, tình cảm và niềm tin mà quần chúng dành cho Đảng
ngày càng giảm sút nếu không muốn nói là đã hết, bởi họ phải sống trong
hoàn cảnh buộc phải chấp nhận những gì Đảng sắp đặt hay ban cho. Đảng
thực sự đã trở thành lực lượng cai trị quần chúng, chứ không phải là
lãnh đạo quần chúng như trước nữa. Người ở vị thế cai trị có rất ít khả
năng thuyết phục.
Performance nghĩa
là hoạt động/làm việc (với khả năng và kết quả nhất định). Trước đây,
khi lãnh đạo và cùng quần chúng tiến hành sự nghiệp giành độc lập dân
tộc và thống nhất đất nước, Đảng đã tích cực hoạt động từ bí mật đến
công khai với hiệu quả tốt và cùng toàn dân đạt được một số thành công
nhất định. Khi ấy, vào những tình huống cụ thể, Đảng đã làm công tác dân
vận thành công, bởi tính thuyết phục thông qua việc làm và kết quả, tạo
được sự tin tưởng trên cơ sở tương đồng về lợi ích vật chất và tinh
thần. Nhưng gần 40 năm qua, những thất bại liên tiếp và kéo dài trên mọi
mặt (kinh tế, tổ chức xã hội/hành chính, giáo dục, y tế, văn hóa, khoa
học công nghệ…) khiến cho Đảng lâm vào thế bế tắc về mặt lý luận, hoảng
hốt khi thực tiễn diễn ra ngược lại với lý luận. Quần chúng mất lòng tin
vào người muốn thuyết phục. Đảng và chính quyền làm sai, làm hỏng, tham
nhũng, mất cơ sở của lý lẽ, không còn có thể tự tin mà gây ảnh hưởng
tích cực, nên Đảng và chính quyền mất dần khả năng thuyết phục quần
chúng.
Politeness nghĩa
là sự lịch thiệp, trên cơ sở tôn trọng (đối với quần chúng, để thuyết
phục họ). Đảng và chính quyền cần phải đối xử với quần chúng một cách
nhã nhặn và thể hiện tôn trọng họ, mới có thể khiến họ có động lực muốn
đóng góp cho mục tiêu Đảng và chính quyền đề ra. Quần chúng hiển nhiên
có nhu cầu cảm thấy quan trọng và được tôn trọng. Trong hoạt động cách
mạng trước đây, Đảng làm được điều đó, vì lễ độ và quý trọng dân. Các
đảng viên giỏi dân vận, có kỹ năng thuyết phục nên biết cách tiếp nhận
những ý kiến phản ứng từ dân. Thay vì xem đó là sự đối nghịch, cần xem
nó là một phần tự nhiên và có giá trị của quá trình thuyết phục. Họ dùng
mối bận tâm của người dân để mở ra cuộc đối thoại, một cơ hội trao đổi ý
kiến và khám phá ra nhưng điều mới mẻ. Họ làm cho cuộc đối thoại thuyết
phục trở nên trôi chảy bằng cách giải quyết các bất đồng chính kiến.
Những năm qua, sự lễ độ và quý trọng dân không những giảm sút một cách
tệ hại, mà Đảng còn không chấp nhận phản biện từ dân.
Đã
trở thành nỗi nhục của dân tộc, khi mà Đảng cầm quyền một mặt tảng lờ
đối thoại để thuyết phục quần chúng, một mặt chọn phương án mạt sát/đả
kích/quy chụp những người khác chính kiến. Chúng ta tưởng rằng đã có thể
qua rồi cái thời túm tụm đài báo để mạt sát, đả kích (bằng lời và bằng
tranh vẽ) những “thằng” tổng thống Giôn-sơn, Nic-sơn, Ri-gân, Diệm,
Thiệu… và những “thằng” khác hợp tác với những “thằng” ấy, với đủ mọi
méo mó dị dạng về hình thể, về nhân cách, về lời nói, về đời tư… Vậy mà
giờ đây trong Đảng, thói quen thiếu văn hóa đó lại trỗi dậy để nhằm vào
chính những người đồng bào mình, vào cả những đồng chí của mình. Đảng đã
bố trí những kẻ bồi bút, thiếu nhân cách và sự hiểu biết vô cùng thấp
kém, để làm điều đó trên các báo và các trang mạng (websites) của Nhà
nước… Giá như Đảng và các vị lãnh đạo cao cấp ấy biết được rằng, người
đọc khi đọc những nội dung như thế thì chỉ phì cười khi nghĩ về tác giả
của những nội dung ấy, bởi ít nhiều thấy bóng dáng kiểu cách của lý lẽ
tăm tối, du côn của nghị Phước, người mà bà con cô bác TP HCM đã không
may mà “bầu” thành “đại biểu” trong Quốc hội. Thực tế nói trên có nghĩa
là Đảng đã đánh mất sự lịch thiệp và văn hóa tối thiểu, để có thể thuyết
phục quần chúng.
Đảng muốn hướng đến việc khuất phục quần chúng
Không
thể nói rằng Đảng không muốn thuyết phục quần chúng. Nếu lý luận của
Đảng là có các cơ sở cần thiết, nếu Đảng lại có những “sáng tạo lý luận”
nào đó, nếu Đảng tự thấy còn sức mạnh nhất định, nếu Đảng có những
thành công nhất định trong lãnh đạo, nếu Đảng còn giữ được ít nhiều lòng
dân và đủ lịch thiệp với quần chúng, thì chẳng có lý do gì mà Đảng
không thuyết phục quần chúng.
Nhưng
vì đối với Đảng, việc thuyết phục quần chúng ngày càng tỏ ra bất khả
thi, nên Đảng quen dùng cách ép buộc/áp đặt đối với quần chúng. Hơn nữa,
Đảng lại muốn hướng đến việc khuất phục quần chúng.
Đảng
muốn khuất phục quần chúng, bởi Đảng có thế mạnh và kinh nghiệm trong
phương pháp cách mạng dùng chuyên chính, nghĩa là dùng bạo lực. Công cụ
chuyên chính vô sản đã là công cụ hữu ích cho Đảng trong suốt thời kỳ
1930 – 1975, khi lãnh đạo quần chúng trong sự nghiệp giành độc lập dân
tộc và thống nhất đất nước. Thời bấy giờ, công cụ bạo lực không chỉ là
chủ yếu nhằm vào kẻ thù bên ngoài hệ thống (là thực dân kiểu cũ và mới,
và là một phần của dân tộc không theo ý thức hệ Mác-Lê), mà còn nhằm vào
“kẻ thù” bên trong hệ thống chính trị do Đảng xây dựng (là những cán bộ
đảng viên có quan điểm cấp tiến, với xu hướng dân chủ hóa trong Đảng và
ngoài xã hội).
Đảng
muốn khuất phục quần chúng, bởi Đảng nắm trong tay lực lượng vũ trang
(quân đội, công an, dân quân,…). Người quen dùng bạo lực, muốn công cụ
này có hiệu quả, thì luôn có xu hướng muốn biến các đối tượng của bạo
lực phải là “kẻ thù”, là “thế lực thù địch”. Khác với trước đây, đối với
Đảng và chính quyền, giờ đây các đối tượng này xuất hiện khắp nơi khắp
chốn, vì đó lại chính là đồng bào trên toàn quốc và nhiều đồng chí ngay
trong Đảng, không tuân phục hoặc khác chính kiến với Đảng.
Đảng
muốn khuất phục quần chúng, bởi tư tưởng chuyên chính một khi đã ngấm
vào máu lực lượng vũ trang, thì trong rất nhiều trường hợp, chính lực
lượng này kích thích trở lại đến quyết định dùng bạo lực của các lãnh
đạo Đảng và chính quyền.
Đảng
muốn khuất phục quần chúng, cũng còn vì số đông dân chúng qua những năm
tháng đằng đẵng đau khổ trong chiến tranh, nên chỉ muốn yên thân sống
và làm ăn, mà cam chịu sự đè nén, đe dọa và đàn áp của Đảng và chính
quyến. Nếu không vì như thế, số lượng người dân ký vào mỗi bản Kiến nghị
hay Công bố vừa qua không phải chỉ hàng chục ngàn người, mà là vài chục
triệu người.
Hệ lụy
Khi Đảng và chính quyền mất khả năng thuyết phục và chỉ muốn khuất phục quần chúng, nhiều hệ quả tồi tệ sẽ đến.
Đảng
và chính quyền sẽ mất đi một trong các cầu nối liên hệ với dân thông
qua các quá trình thuyết phục. Hệ thống lý luận của Đảng sẽ trở nên xơ
cứng với tốc độ nhanh hơn, do mất động lực thuyết phục không chỉ đối với
quần chúng, mà còn cả đối với các đảng viên trong Đảng nữa. Khủng hoảng
lòng tin của quần chúng đối với Đảng và chính quyền sẽ trở nên trầm
trọng hơn, vì người dân không còn được thuyết phục bởi những lý lẽ thấu
tình đạt lý. Xuất hiện xu thế mất động lực của quần chúng trong việc
hưởng ứng, ủng hộ và thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng và
chính quyền.
Xu
hướng khuất phục quần chúng nhân dân bằng bạo lực làm sai lệch mục đích
tồn tại của các lực lượng vũ trang trước hết là để phục vụ và bảo vệ
nhân dân. Khi thực hiện các nhiệm vụ bạo lực để đe dọa, trấn áp, đàn áp
quần chúng, các cán bộ sĩ quan và chiến sĩ lực lượng vũ trang bị suy
thoái đạo đức nhân cách một cách nghiêm trọng. Dùng bạo lực, sự thắng
thế đối với quần chúng không có vũ khí (và không chủ trương dùng bạo
lực) chỉ là thắng thế tạm thời. Quần chúng khi bị đè nén và đàn áp, sẽ
trở thành chiếc lò xo vĩ đại đang bị nén lại, tích lũy năng lượng khổng
lồ để bung ra vào thời điểm nhất định, đánh bật trở lại và hạ gục thế
lực cố tình nén nó một cách bừa bãi.
Thái Bình, 17/3/2013
L.H.S.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN