Khi tôi hỏi nhà văn Tô Hoài “so với con người thời xưa thì con
người thời nay có xấu hơn?”, ông không ngần ngại trả lời “chẳng những
xấu hơn mà người nay lại hay có lắm lý lẽ biện hộ cho sự hư hỏng của
mình” .
Tôi đã tìm cách nối dài gợi ý của Tô Hoài bằng bài viết sau, chủ yếu
nhân mạnh chính xã hội thời nay đã trang bị cho con người đủ thứ lý sự
để họ có thể yên tâm trượt dài trong sự hư hỏng, do đó bệnh trạng lại
càng vô phương cứu chữa.
Người làm sao ta làm vậy
Người làm bậy ta làm theo
Người làm bậy ta làm theo
Tôi muốn nhắc lại câu tục ngữ mới ấy để lưu ý rằng sự tiêu diệt tinh
thần tự chủ cá nhân và cách sống bầy đàn mà xã hội tạo ra cũng chính là
môi trường rất tốt để cái mầm mống triết lý hư hỏng này phát triển, và
lan ra như một nạn dịch.
Từ câu chuyện nhỏ về mấy thứ rau quả có thể gây ngộ độc...
Trong số những gánh hàng rong bán quanh Hà Nội thì hàng rau vốn có từ
lâu dời nhất. Từ sau 1954 lại thêm những chiếc xe đạp đằng sau thồ hai
sọt bự chở rau quả cũng len lỏi khắp mọi phố sá, tự chúng đã thành một
nét riêng của Hà Nội, làm chứng cho sự có mặt của những người nông dân ở
một thành phố có nhiều dây mơ rễ má với nông thôn.
Bước vào thời bung ra làm ăn, tự nhiên có chuyện một số hàng rau quả
bị phun thuốc sâu quá mức cho phép, ăn vào có thể ngộ độc, nhiều người
đâm ngại. Chẳng biết mua cái ăn ở đâu khác, và ham rẻ, người ta vẫn mua,
nhưng mang về phải ngâm nước hoặc gọt vỏ mới dám ăn.
Giá kể chuyện xảy ra ở các nước có nền kinh tế phát triển, người ta
sẽ có cách đối phó là kiểm tra hàng rồi mới cho mang bán. Nhưng ở ta,
cái chuyện khoa học rắc rối ấy, ai mà dám nghĩ tới.
Cũng chưa ai xác định rằng đây có phải là một thứ tội trạng không và
nếu bắt được quả tang người bán thứ hàng độc hại ấy thì sẽ xử ra sao.
Rút cục mọi người chỉ đành nhắm mắt cho qua.
Nguời gọi là có trình độ lý luận hơn thì nhấn mạnh:
- Căn bản là phải đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức tự giác cho nhân dân để bảo vệ sức khoẻ chung!
Kể ra cách đặt vấn đề như vậy, cũng đã bắt đầu lần ra đầu mối của mọi
hiện tượng gọi là tiêu cực. Tuy nhiên, ở đây tôi muốn đi xa hơn một
chút.
... tới những cách lý sự mang màu sắc dân gian
Để sang một bên cái chuyện người dân khi phun thuốc sâu quá độ cho phép vào rau quả không biết là nó có thể gây ra độc hại.
Cách biện hộ như vậy quá xa thực tế. Xưa nay, nông thôn ta vẫn có lối
thông tin khá tuỳ tiện mà cũng khá hiệu nghiệm, đó là những lời đồn
đại.
Nữa là bây giờ, báo đài (radio) sẵn hơn, ti-vi nhiều hơn, hẳn là nhiều người cũng đã biết rõ hậu quả việc họ đã làm.
Thế nhưng tại sao họ cứ tiếp tục?
Có thể dự đoán là nếu nghe có lời bàn ra tán vào, người ta sẽ chỉ tặc lưỡi:
- Ôi giời! Đau bụng một lúc rồi khỏi. Với lại dân thành phố bây giờ
tiền nhiều, lại sẵn thuốc Pháp, thuốc Mỹ, đau mấy rồi họ cũng khỏi.
Tạm gọi đấy là một ý nghĩ giản đơn, nông nổi. Song theo tôi tính, sở
dĩ những giản đơn nông nổi ấy nảy sinh, vì ở tận bề sâu, cái ý nghĩ
người ta để bụng phải là:
- Mình thì khổ quá, đã vất vả quá. Còn những người ấy thì sung sướng như giời như bể!
Và để đi tới chỗ tự cho phép mình làm liều mà không cần áy náy, có cái điều người ta không nói ra, nhưng chắc chắn đã nghĩ:
- Người khổ có quyền làm bất cứ việc gì miễn là thoát ra khỏi cảnh khổ.
Khi hành động, suy cho cùng, con người ta ít hay nhiều, gián tiếp hay trực tiếp, đều đã bộc lộ một triết lý về hành động.
Và không vì triết lý đó còn mang đậm tư duy dân gian, còn ở dạng tự
phát (và chắc chắn là không thành hệ thống), mà chúng ta không thử gọi
rõ nó ra như thế.
Liên hệ việc người nông dân bán cả thứ rau quả có thể gây ngộ độc với
vô vàn việc gọi là tiêu cực trước mắt (học sinh quay cóp bài; người qua
đường liều lĩnh vượt xe ở những quãng đang có đèn đỏ; kẻ buôn lậu tàng
trữ thứ thuốc tiêm chích vốn một lãi trăm lãi ngàn; các nhân viên nhà
nước lợi dụng chức quyền để tham nhũng v.v..), tôi tưởng có thể nói
nhiều người đang gặp nhau ở ý nghĩ: thời buổi này, chẳng còn gì để phân
biệt là lợi với hại, là việc bị pháp luật nghiêm cấm với việc được phép;
cũng chẳng nên nói rằng việc này hợp, còn việc kia trái đạo lý.
Trong việc mưu cầu lợi ích cá nhân - ở một số người, nó được xem như
sự định hướng duy nhất, như động cơ chi phối mọi hành động - con người
ta chỉ còn một “triết lý” đơn giản: “Chỉ có những việc chưa làm được,
chứ không có việc không được làm “. Một “triết lý” tuỳ tiện về nguyên
tắc, có thể mở đường cho mọi tội lỗi, cố nhiên.
Căn nguyên văn hóa
Theo cách hiểu thông thường mà đa số chúng ta chia sẻ, văn hoá chẳng
qua chỉ là những gì thuộc về sinh hoạt tinh thần chủ yếu là các loại văn
chương, phim ảnh, các loại hình sân khấu hội họa… các phương tiện tuyên
truyền cờ đèn kèn trống cùng các hoạt động vui chơi giải trí.
Nhưng văn hoá theo nghĩa sâu sắc của nó thì bao trùm mọi lĩnh vực
sinh hoạt trong đó có những lĩnh vực cao xa hơn nhiều. Nó liên quan đến
cách sống cách tồn tại của cả cộng đồng, nó là những ý tưởng toát ra từ
cả những chuyện cụ thể như ăn mặc, sinh hoạt, hội hè... cho đến những
chuyện trừu tượng như quan niệm về nhân sinh và vũ trụ; cách hiểu về mối
quan hệ giữa thế giới đang sống và thế giới bên kia, về thời gian,về
lịch sử v.v...
Theo nghĩa ấy mà xét, một triết lý sống ở dạng tự phát, đại loại “chỉ
có những việc chưa làm được, chứ không có những việc không được làm”
cho thấy một cách hiểu về quyền hành động của mỗi con người, và mối quan
hệ giữa cá nhân và cộng đồng, do đó, nó cũng thuộc về những tầng văn
hoá được hình thành và di truyền một cách vô thức (ở đây là văn hoá
chung sống).
Bền vững và ổn định trong thời gian, nó nằm sâu trong tâm linh để chi phối mọi hành động của cá nhân.
Nói cách khác, những biểu hiện tản mạn rời rạc hàng ngày sẽ không thể
biến đổi tận gốc chừng nào người ta chưa nhận chân ra những căn nguyên
văn hoá đứng đằng sau và có đối sách thích hợp.
Liệu có rơi vào suy diễn quá xa, khi thử nêu nhận xét như trên? Tôi
hiểu, khi phân tích những rắc rối trong làm ăn buôn bán hay thực thi
pháp luật trên phạm vi toàn xã hội, người ta thường không dành cho các
nhân tố lịch sử - văn hoá một vai trò nào đó. Khi bàn về công cuộc phát
triển, nhiều người tin chắc như đinh đóng cột rằng “So với nước người,
ta có thể còn non kém về kinh tế chứ nhất định không có chuyện người dân
ta chưa trưởng thành về văn hoá “, lại càng không ai muốn tin rằng
trong những năm gần đây, cái nền móng văn hoá ở mỗi người bình thường
lại đang bị xói mòn và biến dạng.
Tóm lại văn hoá không được nhìn nhận như một cái gì đứng sau tất cả,
lại càng không mấy ai quan niệm rằng ở đó có thể tích tụ cả những độc
tố, thường xuyên gây tác hại.
Trong khi ấy, những diễn biến của đời sống trước mắt có lẽ đang yêu cầu một cách nghĩ khác.
Nếu không tìm cho ra những căn nguyên văn hoá đứng sau những hiện
tượng tiêu cực đang là những ung nhọt nhức nhối trên cơ thể cả xã hội,
thì cuộc đấu tranh ở đây sẽ chẳng khác là bao so với chuyện chặt đầu tên
giặc Phạm Nhan ngày xưa: cứ đầu này bị chặt, đầu khác lại mọc.
Đã in Nhân nào quả ấy 2004 dưới nhan đề "Đáng sợ nhất là những cách nghĩ tưởng như rất có lý"