Những
ngày này ai còn có lương tri đều hướng về gia đình anh nông dân Đoàn
Văn Vươn với những căm phẫn, lo âu, thương yêu, chia sẻ…Nhiều người nhắc
đến vụ án Nọc Nạn, mà tính đến ngày 17/2 vừa qua đã tròn 85 năm.
Sự thật, tính chất vụ Nọc Nạn không khác gì vụ Tiên Lãng. Anh Đoàn Văn Vươn giống người nông dân yêu đất đai và là anh hùng chống lại một chính quyền có đầy đủ sức mạnh và quyền lực là Biện Toại.
Có thể xem vụ anh em Đoàn Văn
Vươn nổ súng vào cường quyền, áp bức như một sự mở đầu cho một cuộc
“Khởi nghĩa của Liềm” – một “nòng cốt” của chuyên chính vô sản.
Trước đó, nhiều năm đã qua, các
cuộc “Khởi nghĩa của Búa” năm nào cũng nổ ra, càng về sau càng gia tăng
số lượng và chất lượng. Không ít những người trẻ tuổi dấn thân cho cuộc
cách mạng này đã chịu nhiều đau khổ, bị tù đầy. Tiêu biểu nhất là Đỗ
Thị Minh Hạnh, Đoàn Văn Chương và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng hiện vẫn còn
trong nhà tù.
Có lần Hạnh đã khóc nói với với
mẹ khi bà vào thăm con gái rằng, làm sao cô có thể nhận tội để xin giảm
án 7 năm tù khi cô không làm gì sai trái, khi cô giúp những người công
nhân đình công để buộc giới chủ không được bóc lột và phải tôn trọng họ?
Hạnh còn nói, đó không chỉ đòi lại quyền lợi mà còn đòi sự tôn trọng
nhân phẩm cho người Việt khi bị giới chủ ngoại quốc chà đạp. Ngày 12/3
năm nay, Hạnh mới tròn 28 tuổi. Em còn quá trẻ nhưng em đã thực sự
trưởng thành để làm nên nhân cách của một nhà cách mạng tiêu biểu.
Dù không có Hạnh, Chương hay
Hùng thì các cuộc đình công của công nhân khắp cả nước chưa hề có dấu
hiệu giảm bớt, mặc dù các cuộc đình công đó luôn luôn bị các ông chủ bắt
tay với chính quyền chia rẽ, đàn áp.
Trở lại các cuộc “Khởi nghĩa
của Liềm” đang ngày càng nổ ra rất nhiều trên cả nước. Sau vụ Tiên Lãng
quật khởi là vụ nông dân Văn Giang kiên quyết chống lại sự cưỡng chế bất
công của nhóm lợi ích được bảo vệ bởi cả hệ thống hành pháp, hành
chính, và ngày 2/4 tới đây là hệ thống tư pháp vào cuộc. Tiếp đó là nông
dân Vụ Bản, Dương Nội…
Và hàng ngày có ai đếm được những tốp nông dân khắp cả nước kéo về Hà Nội khiếu kiện, đòi công lý?
Nhiều người ngậm ngùi than thở,
quay mặt đi và cảm thấy bất lực, vì họ cho rằng, cuộc đấu tranh của
những nông dân nghèo đói, tay trắng với một chính quyền “duy nhất đúng”
được bảo đảm bởi bạo lực và sự đàn áp bằng mọi giá sẽ là vô nghĩa. Dù
vậy, những người nông dân chưa bao giờ lùi bước cho dù cuộc khởi nghĩa
của họ khá chông chênh như chính cuộc sống hiện nay của họ vậy.
Bất luận trong gian đoạn nào,
thời kỳ nào thì các cuộc cải cách (cách mạng) là cần thiết để một xã hội
phát triển. Thực sự ở Việt Nam chưa bao giờ có một cuộc cách mạng theo
đúng nghĩa, là, xóa bỏ chế độ cũ đã trở nên lạc hậu không thể tiếp tục
tồn tại, để xây dựng một xã hội mới, có sự thay đổi căn bản, sâu sắc về
quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được
bắt đầu sau khi cuộc đấu tranh giành độc lập thoát khỏi sự đô hộ của
người Pháp, cũng chỉ là cuộc khởi nghĩa. Và để kêu gọi các lực lượng xã
hội đông đảo tham gia cùng với mình, những người cộng sản đã đưa những
khẩu hiệu hấp dẫn về sở hữu ruộng đất như “ruộng đất về tay dân cày”;
“người cày có ruộng”; đưa tầng lớp tư sản vào mặt trận để họ đóng góp
tài vật cho cuốc đấu tranh…
Những người cộng sản đầu tiên
đưa lý thuyết CNCS về Việt Nam và lãnh đạo giành độc lập, chắc chắn chưa
hề có ý tưởng gì về xã hội họ sẽ xây dựng trong tương lai, bởi phần lớn
họ đều xuất thân từ tầng lớp ông dân thất học. Thực tế cho đến lúc này,
họ vẫn đang lúng túng về lý thuyết sở hữu. Vẫn kiên định về sở hữu đất
đai, tư liệu sản xuất là của toàn dân, cho dù sau hơn 83 năm nắm quyền,
tính sở hữu đó đang bộc lộ gay gắt những mâu thuẫn không thể giải quyết.
Và, việc xây dựng nền công nghiệp hóa là hết sức ảo tưởng. Vì công
nghiệp hóa phát triển sẽ kéo theo sự phát triển giai cấp tư sản thực sự,
độc lập với chính quyền. Đó chính là tư hữu. Hiện tại vẫn có giai cấp
tư sản, nhưng là “tư sản đỏ”, không giúp gì cho việc cải cách xã hội
theo hướng dân chủ.
Tính sở hữu toàn dân là chủ
trương của các nhà cách mạng XHCN, cho rằng thay đổi tận gốc tính tư hữu
của chế độ phong kiến cũ chỉ diễn ra ở bề mặt. Thực chất, sở hữu này
tập trung vào nhà nước, hay nói cách khác, tập trung vào nhóm lợi ích,
tức là tư hữu. Càng sai lầm, họ càng tập trung quyền lực vào nhà nước
chuyên chế thông qua bạo lực.
Trong các cuộc cách mạng tư sản
ở các nước phương Tây trước đây, lúc nào cũng bảo lưu tính sở hữu tư
nhân. Và sau khi dành thắng lợi thì các cuộc cách mạng đó tiệm cận dần
đến một xã hội phát triển văn minh và dân chủ. Nhưng cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa thì luôn kêu gọi tiêu diệt giai cấp thống trị, địa chủ, tư
bản “ngồi mát ăn bát vàng”, mà về thực chất, chính quyền hiện nay không
khác gì các triều đại vua quan ngày trước, dù được che đậy hay tuyên
truyền áp đặt thế nào đi chăng nữa. Vẫn là sự kế thừa đặc quyền đặc lợi
vào tay một nhóm người cầm quyền và theo xu hướng truyền thừa từ đời cha
ông đến đời con cháu.
Nếu nói những người cộng sản đã
lợi dụng, phản bội giai cấp nông dân sau cuộc chiến tranh giành độc lập
thì cũng chưa hẳn đúng. Bản thân họ khi ấy cũng ảo tưởng về một xã hội
không còn giai cấp, xóa bỏ bóc lột và chia đều sự công bằng. Nhưng làm
thế nào để có được xã hội đó thì họ không biết, hoàn toàn không
biết…Chính vì không biết nên họ đã áp đặt sự điều hành xã hội, vốn không
bao giờ tồn tại và phát triển được qua cương lĩnh, nghị quyết đảng,
chuyên chính của giai cấp vô sản. Nhưng lúc này bảo họ không biết thì
lại là nhầm lẫn lớn. Hơn ai hết họ hiểu, con đường họ đang đi bế tắc
không lối thoát. Nhưng nếu bảo họ từ bỏ con đường này để bước sang con
đường khác là không thể vì đã rất lâu, họ quen hưởng đặc quyền từ quan
hệ sản xuất “sở hữu toàn dân” rồi. Xã hội ngày càng méo mó dưới quan hệ
sở hữu này.
Đừng bao giờ nghĩ rằng, “liềm” và “búa” là lực lượng chủ yếu của chính quyền “vô sản” hiện nay.
Công nhân vốn luôn luôn là giai
cấp vô sản trong mọi xã hội. Ở xã hội tư bản thì giai cấp vô sản này sẽ
biểu hiện sức mạnh của mình thông qua nghị trường. Họ có thể đình công,
bãi công nếu giới chủ không thỏa mãn nguyện vọng và quyền lợi của họ,
có đại diện ở nghị viện. Còn người nông dân thì sở hữu ruộng đất là điều
kiện sống còn nếu họ muốn sống bằng chính mảnh đất của mình.
Ở Việt nam, chưa bao giờ hai
lực lượng “nòng cốt” này được bảo vệ và tôn trọng, dù họ được “tuyên
dương” thông qua biểu tượng trên lá cờ của người cộng sản. Nông dân sẽ
bị tước bỏ tư liệu sản xuất bất cứ lúc nào nhà nước (thực ra nhóm lợi
ích) cần đến mà không thể đàm phán. Còn công nhân thì vẫn là làm thuê
như bất cứ ở đâu, nhưng họ bị tước quyền được lên tiếng đòi hỏi quyền
lợi của mình. Gần như họ bị lệ thuộc vào giới chủ hoặc trong nước, hoặc
nước ngoài thông qua sự kiểm soát của chính quyền mà không có nghiệp
đoàn độc lập dấu tranh giúp họ. Thực chất chính quyền hiện nay giống như
thời kỳ đầu xây dựng nhà nước tư bản (chỉ có máu và nước mắt), quyền
lợi tập trung vào các “tư bản đỏ” – nhóm đặc quyền. Vậy thì ngay từ đầu
công cuộc xây dựng CNXH, “liềm” và “búa”, trên thực chất, bị đẩy ra
ngoài cuộc cách mạng này.
Vậy tiếng súng hoa cà hoa cải
rất nhỏ của người nông dân dũng cảm Đoàn Văn Vươn, hay các cuộc biểu
tình của nông dân các tỉnh thành hiện nay báo hiệu chuyện gì đang xảy
ra? Liệu có xảy ra các cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại chế độ phong
kiến như trong quá khứ?
Chủ nghĩa cộng sản đã mắc sai
lầm khi cho rằng họ độc quyền các cuộc cách mạng xã hội. Bởi họ ảo tưởng
(hay giả vờ ảo tưởng) để cố thuyết về một xã hội “dân chủ, công bằng,
văn minh” mà chỉ có họ mới xây dựng được. Nhưng bất cứ một xã hội nào,
nếu không có sự vận động (làm cách mạng) của mọi tầng lớp dân chúng thì
xã hội đó sẽ dần tiêu vong. Những người cộng sản Việt Nam đã khởi nghĩa
giành độc lập, không ai phủ nhận điều đó. Nhưng kết quả cuối cùng của
việc giành độc lập bằng bạo lực chưa hẳn là đáp số duy nhất đúng, nếu
chỉ khẳng định bằng kết quả. Ví dụ cụ Phan Châu Trinh
chủ trương giành độc lập theo lối Duy tân, đấu tranh nghị trường, không
dùng bạo lực. Do đấu tranh với chính quyền thực dân Pháp nên cụ bị bắt,
rồi giao cho Nam triều kết án, bị đày ra Côn lôn, Côn đảo. Tuy bị kết án
nhưng cụ lại được chính phủ Pháp trọng đãi và kính nể. Chính viên Thống
đốc Nam kì ra tận Côn đảo tìm hiểu lập trường đấu tranh của cụ. Sau đó
cụ được Hội nhân quyền Pháp can thịêp ráo riết với chính phủ Pháp nên
được thả, sau đó được sang Pháp cùng con trai…Ở Pháp cụ lại tiếp tục đấu
tranh về tội tham nhũng của chính quyền Pháp ở Đông dương…Cụ Phan chủ
trương bắt tay với người Pháp, đấu tranh thông qua nghị trường và đi
theo con đường khai sáng: Khai dân trí; Chấn dân khí; Hậu dân sinh.
Cụ Phan quan niệm: “So
sánh hai cái chủ nghĩa quân trị và và chủ nghĩa dân trị thì chủ nghĩa
dân trị hay hơn cái chủ nghĩa quân trị nhiều lắm. Lấy theo ý riêng của
một người hay là của một triều đình mà trị nước, thì cái nước ấy không
khác nào một đàn dê, được no ấm vui vẻ hay là phải đói rét khổ sở chỉ
tùy theo lòng của người chăn. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị thì tự
quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra cơ quan để lo việc chung cả
nước, lòng quốc dân muốn thế nào thì làm thế ấy. Dù không có người ta
giỏi làm cho hay lắm, cũng không đến nổi phải đè đầu khốn nạn làm tôi
một nhà một họ nào. Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường
tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới
con đường vui vẻ. Còn dân ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi
trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay
một người, hay một chính phủ muốn làm sao thì làm, mà mình không hành
động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường”…
Khi vua Khải Định mất, cụ Phan
đánh điện tín cho Khâm sứ Trung kỳ Pasquier nói rằng cụ sẽ ra Huế để lo
cải tổ triều chính và lập dân đảng. Nhưng chưa kịp thực hiện ước mơ của
mình thì cụ mất vì trọng bệnh, khi mới 55 tuổi (cái tuổi có thể trụ được
2, có thể là 3 “nhiệm kì” bây giờ…). Có thể đây là cơ hội quan trọng mà
đất nước đã bị bỏ lỡ? Rất đáng tiếc.
Giờ là lúc đặt ra câu hỏi: chắc
chắn đất nước cần và phải thay đổi. Nhưng thay đổi bằng cách nào? Thông
qua các cuộc “khởi nghĩa của Liềm và Búa” như cái cách anh Đoàn Văn
Vươn đã làm chăng? Hay thông qua đấu tranh nghị trường như cụ Phan hằng
mong muốn? Nhưng đấu tranh nghị trường bằng cách nào khi quốc hội (mang
tiếng đại diện cho dân chúng) vẫn đặt dưới sự “lãnh đạo không thể chối
bỏ” của đảng cộng sản? Mà chính quyền độc đảng thì vốn không bao giờ
chấp nhận đấu tranh nghị trường, vì như vậy sẽ mất tính đặc thù là không
chấp nhận đa nguyên của họ. Hay còn con đường nào khác? Có ai tự đào hố
chôn mình?
Còn những người nông dân khởi
nghĩa thì thiếu đủ các phương diện tài, lực, đường lối, tư tưởng, người
dẫn dắt…Họ chỉ có biết dùng tiếng súng yếu ớt, bất lực bắn thẳng vào
cường quyền được che chắn bằng đủ thứ áo giáp bạo lực và đặc quyền, như
tiếng súng hoa cà của anh nông dân Đoàn Văn Vươn. Tiếng súng này không
giết được ai, chỉ có thể lay động tâm thức của một bộ phận người bị trị,
tê liệt, vô cảm, vị lợi…
Nhớ lại tiểu thuyết “Chùm nho nổi giận”
của nhà văn Mỹ John Steinbeck viết về những người nông dân Mỹ vào những
năm đầu thế kỷ 20 đã bị bần cùng hóa trước sự trỗi dậy của nền sản xuất
mới – tư bản. Sự hoài thai một xã hội tư bản thời kỳ dã man đã trả giá
bằng rất nhiều số phận những người nông dân mất đất sống, bị bần cùng
hóa. Nhưng là sự trả giá tất yếu (dù đau đớn) của một cuộc cách mạng
thay đổi tận gốc rễ đi từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ sang công nghiệp
tư bản. Bởi thế mới có một nước Mỹ như hiện nay.
Tương đồng vào thời điểm đó,
ngày 13/2/1927, người nông dân Biện Toại ở Bạc Liêu đã dũng cảm chiến
đấu với kẻ cướp đất của mình nhân danh chính quyền. Dù anh em Biện Toại
giết chết viên cò Pháp là Tournier thì sau đó anh ta vẫn được tòa án
thực dân tha bổng, khi có hai luật sư người Pháp bào chữa miễn phí. Công
tố viên người Pháp cũng cho rằng tình cảnh gia đình Biện Toại rất đáng
thương: họ bị những kẻ tham lam vô cảm được tiếp tay bởi quan chức cường
hào ác bá đến cướp đất của họ. Công tố viên đề nghị tòa tha bổng cho
những người trong gia đình Biện Toại. Còn luật sư người Pháp cũng hết
lời ca ngợi tinh thần lao động quên mình, đấu tranh với thiên của gia
đình họ để xây dựng quê hương. Khi ấy, Biện Toại có lẽ may mắn hơn anh
nông dân Tom của John Steinbeck.
Sau gần một thế kỷ xây dựng
“thiên đường CNXH”, những nông dân bị bần cùng hóa và đẩy vào ngõ cụt
như Biện Toại, Đoàn Văn Vươn ngày càng nhiều hơn. Hậu duệ của Tom trong “Chùm nho nổi giận” cuối cùng cũng được mãn nguyện với cuộc sống tốt đẹp sau đó. Còn hậu duệ của Biện Toại đau khổ hơn ông nhiều.
Nếu Biện Toại được tha bổng thì
Đoàn Văn Vươn và các anh em của anh sẽ không được chính quyền “của anh,
do anh và vì anh” tha bổng. Đó là chính là điểm khác biệt căn bản của
các cuộc cách mạng tư sản trước đây (ở các nước TBCN) với cuộc cách mạng
vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nghĩ về vụ án Nọc Nạn, rồi
liên hệ chủ trương đấu tranh nghị trường với người Pháp của cụ Phan, ta
có quyền nuối tiếc về cơ hội của đất nước đã tuột mất.
Đọc Steinbeck, sẽ càng thấy sự
khác biệt giữa quan niệm đấu tranh đòi quyền lợi cho giai cấp công nhân
thông qua các nghiệp đoàn, phổ thông đầu phiếu để có tiếng nói trong
Nghị Viện, nơi lập pháp sẽ bảo vệ lợi ích cho họ. Và ngược lại, đó là
những người cộng sản chủ trương dùng bạo lực để lật đổ chính quyền tư
sản, thiết lập một trật tự xã hội mới – xã hội đó bất công, đặc quyền
đặc lợi, độc đoán như thế nào thì không còn ai ảo tưởng…
Nếu đường lối đấu tranh bất bạo động của Mahatman Gandhi với tầm nhìn xa rằng: “Các
bạn nhầm rồi, mục đích của chúng ta không chỉ là đòi độc lập cho Ấn Độ.
Cái cao cả lâu dài hơn là phải rèn luyện cho người dân Ấn Độ xứng đáng
sống trong nền độc lập đó. Mà cuộc đấu tranh lâu dài này của chúng ta
chính là môi trường để rèn luyện cho người dân đủ phẩm giá sống trong
nền độc lập của mình”, khi các đồng chí của ông nôn nóng muốn dùng
vũ lực giành độc lập khỏi thực dân Anh, thì cách mạng chuyên chính vô
sản làm ngược lại. Khi chủ trương dùng bạo lực để giành chính quyền và
duy trì bạo lực để bảo vệ chính quyền chuyên chính bằng mọi giá, thì
chính quyền “vô sản” đã thủ tiêu mọi phẩm giá làm người của công dân.
Sau cách mạng xã hội chủ nghĩa là gì? Ai dám nói chắc về một điều tốt đẹp sẽ đến?