Andrei Shleifer và Daniel Traisman
Trần Ngọc Cư dịch
Trần Ngọc Cư dịch
Hai mươi lăm năm sau khi Bức tường Bá Linh sụp đổ, một cảm thức nuối
tiếc về cơ hội đã bỏ lỡ đang trùm lên các nước một thời nằm ở phía Đông
đường ranh này. Trở lại thời điểm đó, hi vọng của dân chúng tại đây đã
dâng cao trong không khí hồ hởi đón mừng sự sụp đổ đột ngột của chủ
nghĩa cộng sản. Từ Bratislava đến Ulaanbaatar, cơ hồ thể chế dân chủ và
sự thịnh vượng kinh tế đã đến đợi ở góc đường.
Ngày nay, tâm trạng người dân tại những nước này trở nên u ám hơn.
Với một vài trường hợp ngoại lệ, như Estonia và Ba Lan, những nước hậu
cộng sản còn lại bị coi là những trường hợp thất bại – kinh tế bị oằn
xuống dưới sức nặng của tầng lớp hưởng hưu bổng đang sống chật vật và
giới đầu sỏ chính trị đang sống xa hoa, còn chính trị thì bị hoen ố bởi
các trò gian lận ở thùng phiếu và sự xuất hiện những lãnh đạo độc tài.
Từ Yugoslavia cũ đến Chechnya và bây giờ đến miền Đông Ukraine, các cuộc
chiến đã làm gián đoạn sự liên tục của thời gian hơn 40 năm hòa bình
lạnh [cold peace] trên lục địa châu Âu, để lại nhiều vùng lõm âm ỉ bạo
động. Đối với nhiều quan sát viên thời sự, chế độ kìm kẹp độc tài và
tham vọng địa chính trị hiếu chiến của Tổng thống Nga Vladimir Putin
tiêu biểu cho một tình trạng suy thoái dân chủ tổng quát hơn lan ra từ
phía Đông. “Điều tồi tệ nhất của chủ nghĩa cộng sản là những gì diễn ra
sau nó,” Tổng Biên tập của một nhật báo Ba Lan và trước đây là một nhà
bất đồng chính kiến chống cộng, ông Adam Michnik, mỉa mai.
Ngày kỷ niệm là một dịp tốt để chiêm nghiệm lịch sử và chẩn đoán
tương lại. Nhiều thay đổi đã diễn ra từ khi các nước hậu cộng sản – gồm
15 quốc gia kế thừa Liên Xô, 14 nước cộng sản cũ của Đông Âu, và cựu chư
hầu Xô-viết Mông Cổ – đã thoát khỏi các chế độ Mác-xít tàn bạo cách đây
một thế hệ. Không phải mọi thay đổi đều phải trở thành một cái gì tốt
đẹp hơn. Nhưng nếu coi những cải tổ hậu cộng sản là thất bại, thì đó lại
là một sai lầm, và sai lầm này có nhiều ý nghĩa vượt ra ngoài khu vực.
Một số nhà nghiên cứu, choáng ngợp trước sự trỗi dậy của Trung Quốc và
bị sốc do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, gần đây đã coi chủ nghĩa
tư bản nhà nước độc tài là một phương án sinh động thay thế cho sự rối
loạn chức năng của thể chế dân chủ tự do. Quan niệm sai lầm cho rằng nỗ
lực cải tổ thị trường đã thất bại tại Đông Âu đã tăng cường cái ảo giác
này.
Sự thật là lối tường thuật u ám đang thịnh hành về thế giới hậu cộng
sản phần lớn là sai lầm. Gạt qua một bên các hình ảnh thời sự hiện nay,
chúng ta sẽ thấy cuộc sống đã được cải thiện ngoạn mục khắp khối Đông
cũ. Từ thời kỳ quá độ đến nay, các nước hậu cộng sản đã phát triển kinh
tế nhanh chóng; ngày nay, người dân trở nên giàu có hơn, có tuổi thọ cao
hơn, và sống hạnh phúc hơn. Gần như trên mọi phương diện, những quốc
gia này hiện nay hoàn toàn giống như bất cứ quốc gia nào khác trên thế
giới có cùng một mức độ phát triển kinh tế. Chúng đã trở thành những
nước bình thường – và, trong nhiều cung cách, tốt đẹp hơn cả bình
thường.
Mặc dù tính trung bình, chúng giống như các quốc gia đồng đẳng kinh
tế, nhưng trên thực tế các quốc gia chuyển đổi thể chế này đã trở nên đa
dạng hơn nhiều. Sau khi thoát ra khỏi mô hình do Moscow áp đặt, chúng
chịu sức thu hút của những quốc gia láng giềng phi cộng sản gần nhất:
các nước ở Trung Âu nghiêng về châu Âu hơn; các nước ở Trung Á nghiêng
về châu Á hơn. Trong những năm sắp tới, con đường phát triển của chúng
có khả năng cùng phản ánh sự ganh đua giữa hai lực tác động chính: tính
năng động toàn cầu của hiện đại hóa và sức níu kéo của địa lý [khu vực].
CÁC QUỐC GIA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Để hiểu rõ các nước hậu cộng sản nói trên đã thay đổi ra sao ta hãy
nhớ lại chúng đã xuất phát như thế nào. Về chính trị, chúng đều là những
quốc gia độc tài được cai trị bởi một đảng cầm quyền. Mỗi nước đều có
cán bộ tuyên giáo để dạy bảo người dân phải nghĩ gì, có mật vụ để phát
hiện bất đồng chính kiến, và có trại tù để giam giữ những người chỉ
trích chế độ. Tất cả đều bày ra các cuộc tuyển cử khôi hài trong đó đảng
chiếm hơn 95 phần trăm phiếu bầu. Trừ Yugoslavia và Albania sau
năm1960, các nước khác đều nhận lệnh từ Moscow, một trung tâm quyền lực
đã đưa xe tăng vào Hungary năm 1956 và Tiệp Khắc năm 1968 để đàn áp các
cuộc nổi dậy của dân chúng.
Tất cả các nước trong khối cộng sản vào thời đó có nền kinh tế do
trung ương kiểm soát. Hầu hết hoặc tất cả tài sản đều thuộc về nhà nước,
và giá cả được các nhà làm kế hoạch kinh tế đặt ra, chứ không do thị
trường định đoạt. Công nghiệp nặng chiếm ưu thế trong khi khu vực dịch
vụ thì èo uột. Tại Liên Xô, chi phí quốc phòng đã ngốn tới 25 phần trăm
GDP vào cuối những năm 1980, so với dưới 6 phần trăm tại Mỹ. Vào năm
1986, các nhà máy của Liên Xô đã sản xuất một kho vũ khí gồm 45.000 đầu
đạn hạt nhân.
Làm thoả mãn người tiêu thụ không phải là một ưu tiên. Để mua được
một căn hộ vào những năm 1980, người nạp đơn ở Bulgaria phải đợi đến 20
năm, và tại Ba Lan phải đợi đến 30 năm; một phần tư số người trong danh
sách chờ tại Liên Xô là người đã nghỉ hưu. Người mua xe hơi tại Đông Đức
phải đặt hàng trước 15 năm. Tại Romania, nhà độc tài Nicolae Ceausescu
buộc mọi người phải theo một chế độ ăn uống thiếu calorie vào đầu những
năm 1980 để dành tiền trả nợ nước ngoài. Ông qui định mỗi phòng chỉ được
thắp sáng bằng một bóng đèn 40 watt, sưởi ấm các công sở chỉ đến 14 độ C
là tối đa, và thời gian phát sóng truyền hình mỗi ngày là hai giờ với
các chương trình tẻ nhạt.
Các nước cộng sản có thể rêu rao một số thành tích. Với chỉ 8 phần
trăm dân số thế giới, Liên Xô và các nước Đông Âu đã giành được 48 phần
trăm huy chương tại Thế vận hội Seoul năm 1988 và có đến 53 trong số 100
tay cờ tướng hàng đầu năm đó. Tỉ lệ người có học và biết chữ là cao.
Tuy nhiên, vào những năm suy tàn của chủ nghĩa cộng sản, ít ai chịu
đứng ra bênh vực nó. Theo Vaclav Havel, nhà bất đồng chính kiến về sau
trở thành Tổng thống Cộng hòa Séc, hệ thống đó là một “cỗ máy đồ sộ quái
đản, inh ỏi và tanh hôi.” Nhiều năm sau khi rời bỏ quyền hành, Mikhail
Gorbachev, chủ tịch cuối cùng của Liên Xô đã mô tả đặc tính của nền kinh
tế mà có thời ông giám sát là “ngốn ngấu” và “phung phí tài nguyên.”
Cuối cùng, toàn bộ hệ thống Xô-viết thình lình sụp đổ. Các lãnh đạo
mới được dân bầu ra khắp khối cộng sản cũ phải đối diện với nền kinh tế
nước mình trong cơn khủng hoảng. Năm 1989, lạm phát tăng vọt 640 phần
trăm tại Ba Lan và 2.700 phần trăm tại Nam Tư. Khoảng thời gian trước
1991, thời điểm Liên Xô tan rã, sản lượng của nước này giảm 15 phần trăm
một năm.
Các chính phủ hậu cộng sản đồng loạt thực thi các chương trình cải
tổ – được thiết kế để giảm bớt việc kiểm soát giá cả, thúc đẩy mậu dịch,
quân bình ngân sách, tư hữu hóa các xí nghiệp nhà nước, và thiết lập
các chương trình phúc lợi xã hội – mặc dù một số nước có thể theo đuổi
các chương trình này nhanh hơn và mạnh hơn các nước khác. Những cải tổ
này đã thay hình đổi dạng nền kinh tế của họ. Nói chung, nhờ từ bỏ đường
lối hoạch định kinh tế trung ương, các nước hậu cộng sản có điều kiện
phát triển kinh tế thị trường hơn phần còn lại của thế giới. Khoảng năm
2011, các nước này đạt một chỉ số tự do kinh tế trung bình là 7,0, một
chỉ số do Viện Fraser, một nhóm nghiên cứu tại Canada đúc kết, so với
chỉ số trung bình toàn cầu là 6,8. Nước được cải tổ nhiều nhất trong
khối,Estonia, có chỉ số tự do kinh tế nằm giữa Đan Mạch và Hoa Kỳ.
Hầu như khắp mọi nơi, các con khủng long công nghiệp nhà nước phải
nhường bước cho các công ty tư nhân là những công ty bắt đầu sản xuất
phần lớn tổng sản phẩm nội địa (GDP). Sản lượng trung bình của khu vực
tư tại các nước hậu cộng sản hiện nay chiếm khoảng 70 phần trăm. Công
nghiệp nặng được giảm thiểu, và trung bình, khu vực dịch vụ tăng từ 36
phần trăm đến 58 phần trăm sản lượng quốc gia trong thời gian từ 1990
đến 2012. Không có một khu vực nào trên thế giới mà mậu dịch quốc tế
phát triển nhanh như thế, với kim ngạch nhập khẩu và xuất khẩu cùng tăng
vọt từ 75 phần trăm đến 114 phần trăm GDP. Sau nhiều thập niên chủ yếu
trao đổi mậu dịch với nhau trong cùng một khối, các quốc gia hậu cộng
sản đã nhanh chóng tái định hướng kinh tế để nhắm tới các thị trường
nước ngoài tại châu Âu và những khu vực khác. Tính đến năm 2012, giá trị
hàng xuất khẩu từ các nước Đông Âu cũ sang EU tăng trung bình 69 phần
trăm và từ các nước cộng hòa Xô-viết cũ 47 phần trăm.
Tóm lại, những nước này đã chuyển đổi hệ thống kinh tế do nhà nước
quản lý, được quân sự hóa và công nghiệp hóa cao độ thành một nền kinh
tế thị trường hướng về dịch vụ, đặt cơ sở trên sở hữu tư nhân và hội
nhập vào mạng lưới thương mại toàn cầu. Không còn bị bóp méo theo đường
lối Mác-xít, các định chế kinh tế, chính sách mậu dịch, và các môi
trường điều tiết tại những nước này ngày nay giống hệt các nước khác có
cùng một mức lợi tức quốc gia.
Bất chấp những thay đổi này, các quan sát viên thường qui trách
nhiệm cho các cải tổ thời hậu cộng sản về thành tích kinh tế tồi tệ tại
các quốc gia đang trải qua thời kỳ quá độ. Hai cáo buộc thông thường cho
rằng trên cơ bản các cải tổ này đã được quan niệm một cách sai lầm và
rằng chúng đã được thi hành một cách quá triệt để [too radical]. Việc
chỉ trích này nêu lên hai câu hỏi: một là, liệu thành tích kinh tế của
các quốc gia này có thực sự tồi tệ hay không, và hai là, liệu các chiến
lược triệt để hơn có mang lại kết quả tồi tệ hơn so với các đường lối
cải tổ tuần tự hơn hay không. Câu trả lời vắn tắt cho cả hai câu hỏi là
không.
HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐI LÊN
Một khởi điểm hợp lý trong việc đánh giá thành tích kinh tế của một
nước là lợi tức quốc gia của nó, nhưng bất cứ một sự so sánh nào dùng số
liệu của thời Xô-viết cũng cần phải được xét đến bằng một thái độ hoài
nghi. Vì nhiều lý do khác nhau, phần lớn sản lượng mà các kế toán viên
của thời cộng sản ghi lại trong sổ sách thường không có giá trị như con
số mà họ rêu rao. Các nhà máy báo cáo láo sản lượng của mình để lãnh
tiền thưởng, do đó thổi phồng các số liệu GDP lên đến 5 phần trăm. Nhiều
hàng hóa do các nhà máy này sản xuất có phẩm chất tồi tệ đến nỗi người
tiêu thụ không chịu mua. Chính phủ phát động nhiều dự án đồ sộ nhưng
không bao giờ được hoàn thành (mà vẫn được tính vào chi phí đầu tư, làm
gia tăng các giá trị GDP) và duy trì các chi phí quốc phòng to lớn với
trị giá rất đáng hoài nghi. Rốt cuộc, chỉ một phần rất nhỏ trong lợi tức
chính thức của quốc gia lọt vào túi của người dân mà thôi. Vào năm
1990, chẳng hạn, lượng tiền dùng để tiêu thụ trong các hộ gia đình tại
hầu hết những nước phi cộng sản [noncommunist countries] chiếm đến 60
phần trăm GDP. Nhưng tại Nga, con số này chiếm chưa được một phần ba
GDP, và tại Azerbaijan, con số này rơi xuống dưới một phần tư.
Phần lớn sự suy thoái kinh tế được ghi nhận trong những năm đầu của
thời kỳ quá độ hậu cộng sản – theo một vài ước tính, có thể giảm đến một
nửa – đã phản ánh việc cắt bỏ sản lượng hư cấu hay các đầu tư vô bổ của
thời cộng sản. Nhưng thậm chí nếu những con số chính thức này được thừa
nhận theo giá trị bề mặt của chúng, bức tranh mà chúng cho thấy vẫn
sáng sủa hơn người ta thường lầm tưởng. Bất chấp nền kinh tế bị suy giảm
lúc đầu, trong thời gian từ năm 1990 đến năm 2011, một nước hậu cộng
sản có mức tăng trưởng trung bình (Uzbekistan) cũng tăng trưởng nhanh
hơn một chút so với một nước có mức tăng trưởng trung bình ở một nơi
khác trên thế giới (Norway). Trong khi GDP đầu người của Norway tăng lên
45 phần trăm trong thời gian nói trên, Uzbekistan tăng được 47 phần
trăm. Bosnia, nơi lợi tức quốc gia tăng hơn 450 phần trăm, đã đạt tỉ lệ
tăng trưởng ở vị trí thứ ba trên thế giới trong giai đoạn vừa nói.
Albania đứng ở vị thứ 16, tăng trưởng 134 phần trăm, và Ba Lan vị thứ
20, tăng trưởng 119 phần trăm. Ba nước hậu cộng sản này còn qua mặt cả
những cỗ máy có truyền thống tăng trưởng như Hồng Kông và Singapore.
Sự gia tăng về mức tiêu thụ cũng ngoạn mục không kém. Từ năm 1990
đến năm 2011, mức tiêu thụ trong các hộ gia đình tính theo đầu người tại
các nước hậu cộng sản đã tăng trung bình 88 phần trăm, so với mức tăng
trung bình 56 phần trăm tại các nơi khác trên thế giới. Tại Ba Lan, mức
tiêu thụ hộ gia đình đã tăng 146 phần trăm, ngang với tỉ lệ của Hàn
Quốc. Tại Nga, mức tiêu thụ đã tăng 100 phần trăm.
Người dân bình thường đã trông thấy mức sống của mình được cải thiện
đáng kể. Số người sở hữu xe hơi, một thước đo đáng tin cậy về lợi tức
có thể đem ra tiêu xài, đã gia tăng sau khi chế độ cộng sản sụp đổ mặc
dù GDP có sa sút trong những năm đầu của thời kỳ quá độ. Trong thời gian
từ 1993 đến 2011, con số trung bình của xe hơi chở người [passenger
cars] đã tăng từ một chiếc cho 10 đầu người đến một chiếc cho 4 đầu
người. Hiện nay số xe hơi tính theo đầu người tại Lithunia, Ba Lan, và
Lithuania còn cao hơn cả Anh.
Trong công nghệ thông tin, Đông Âu cũng vươn lên phía trước, đi từ
lạc hậu đến tiến bộ vượt bậc. Vào năm 2013, tỉ lệ số điện thoại di động
được sử dụng cho mỗi đầu người là 1,24 [cứ 100 người thì có đến 124
chiếc điện thoại], một con số vượt cả phương Tây. Thế giới hậu cộng sản
ngày nay có một tỉ lệ cư dân mạng là 54 phần trăm dân số trong một nước
trung bình – cao hơn bất cứ khu vực nào trên thế giới ngoại trừ Bắc Mỹ
và Tây Âu.
Công dân của các quốc gia hậu cộng sản cũng đi du lịch nhiều hơn bao
giờ; họ thực hiện 170 triệu chuyến du lịch nước ngoài năm 2012. Và ở
trong nước, họ sống trong những hộ chung cư rộng rãi hơn: từ năm 1991,
không gian sống tính theo đầu người đã tăng lên 99 phần trăm tại Cộng
hòa Séc, 85 phần trăm tại Armenia, và 39 phần trăm tại Nga. Nhờ các
chương trình tư hữu hóa nhà ở cho đại chúng, tỉ lệ sở hữu nhà ở tại một
vài nơi đã vượt đến mức cao nhất thế giới. Dân chúng cũng ăn ngon hơn
trước. Tại bảy trong số chín cộng hòa Xô-viết cũ có công bố các số liệu
thống kê liên quan, việc tiêu thụ trái cây và rau đã tăng vọt. Vào năm
2011, chẳng hạn, dân Ukraine ăn 58 phần trăm nhiều rau hơn và 47 phần
trăm nhiều trái cây hơn so với 20 năm về trước. Cộng hòa Séc, Hungary,
Ba Lan, Slovakia, và Slovenia trải qua một hiện tượng mà các nhà nghiên
cứu y khoa đã mô tả vào năm 2008 trong Tạp chí Dịch tễ học châu Âu
[the European Journal of Epidemiology] “gần như chắc chắn là một đợt
giảm thiểu bệnh tim mạch nhanh nhất chưa từng thấy” sau khi người tiêu
thụ bắt đầu thay thế dầu thực vật cho các loại mỡ động vật.
Về sự thăng tiến trong xã hội, các số liệu thống kê phủ nhận thành
kiến cho rằng xã hội hậu cộng sản đang bị phân hóa giữa giới đại gia đầu
sỏ và tầng lớp ăn mày. Tỷ số sinh viên ghi danh đại học, vốn đã cao,
sau năm 1989 thậm chí còn gia tăng hơn nữa, ở mức trung bình 33 phần
trăm trước năm 2012. Cũng trước năm 2012, tại những nước hậu cộng sản,
tỉ lệ trung bình học sinh vừa xong trung học quyết định tiếp tục học
thêm là cao hơn tỉ lệ tương ứng tại Thụy Sĩ. Mặc dầu tỉ lệ nghèo khổ và
bất bình đẳng lợi tức thường tăng lên vào lúc đầu của thời kỳ quá độ,
nhưng những tỉ lệ này tại các quốc gia hậu cộng sản hiện nay là thấp hơn
các nền kinh tế khác có cùng mức lợi tức tương đương.
Các chính phủ cũng đang có thêm nhiều nỗ lực để đảm bảo cho người
dân có thể hít thở không khí trong lành hơn. Chế độ cộng sản đã để lại
một rừng ống khói nhà máy, nhưng từ 1990, cả 11 nước hậu cộng sản thành
viên của EU đã cắt giảm hơn một nửa các lượng khí thải carbon monoxide,
ốc-xít ni-tơ, ốc-xít lưu huỳnh. Thậm chí trong khi kinh tế đang tăng
trưởng, 12 hai nước cộng hòa Xô-viết cũ đã cắt giảm các khí thải ô nhiễm
thoát ra từ các nguồn cố định vào không khí, ở tỉ lệ trung bình 66 phần
trăm trong thời gian từ 1991 đến 2012.
Và mặc dù thường có những bài báo nêu lên tỉ suất tử vong tăng vọt
[soaring mortality] do căng thẳng của thời kỳ quá độ, các xu thế phát
triển liên quan đến dân số của khu vực này là không đen tối. Tính trung
bình, tuổi thọ tại các quốc gia hậu cộng sản đã tăng từ 69 tuổi vào năm
1990 đến 73 tuổi vào năm 2012. Thậm chí tại Nga, từ lâu đã bị mô tả là
một vùng thảm họa dân số [demographic disaster zone], tuổi thọ trung
bình cũng đứng ở mức ngoài 70 một chút – nghĩa là cao hơn bao giờ hết
trong lịch sử Nga. Tỉ suất tử vong ở trẻ sơ sinh, vốn đã thấp, lại giảm
nhanh hơn tại các các nước hậu cộng sản tính theo tỉ lệ phần trăm so với
bất cứ khu vực nào trên thế giới trong thời gian từ 1990 đến 2010.
Lượng rượu cồn tiêu thụ [của mỗi người] tính trung bình cũng nhích xuống
từ 2,1 gallon [hay 7,95 lít] cồn tinh chất vào năm 1990 xuống 2,0
gallon [hay 7,57 lít] vào năm 2010. Có vài ngoại lệ: lượng rượu tiêu thụ
đã tăng lên tại Nga và các quốc gia Baltic. Nhưng thậm chí lượng rưọu
trung bình cho mỗi đầu người tại Nga vào năm 2010 là 2,9 gallon [hay gần
11 lit] vẫn còn thấp hơn ở Áo, Pháp, Đức, hay Ái Nhĩ Lan.
Mặc dù những tiến bộ như về mức sống, chẳng hạn, là quan trọng;
nhưng chuyển đổi cơ bản nhất đã diễn ra tại các nước trong khối Đông cũ
là chính trị. Người dân của hầu hết các quốc gia chuyển đổi chế độ hiện
sống dưới những chính phủ tự do và cởi mở hơn bất cứ thời điểm nào trong
lịch sử của họ. Thậm chí khi đối chiếu với bối cảnh trong đó thể chế
dân chủ đã trỗi dậy trên toàn cầu vào những thập niên gần đây, mức độ
chuyển đổi chính trị trong khối Đông cũ vẫn là rất ngoạn mục.
Một vài số liệu có thể chứng minh điều này. Sử dụng thước đo phổ
biến nhất về các chế độ chính trị, gọi là Chỉ số Chính thể [Polity
index], do Trung tâm Nghiên cứu Hoà bình của các Thể chế [the Center for
Systemic Peace], chúng tôi đặt các nước trên một thang điểm từ số không
(thuần túy độc tài) đến 100 (thể chế dân chủ vững mạnh nhất). Vào năm
1988, các quốc gia khối Đông được xếp từ vị thứ 5 (Albania) đến 40
(Hungary), tính trung bình các nước trong khối này có điểm số 20, gần
với điểm số của Ai Cập và Iran. Dựa vào trình độ phát triển kinh tế lúc
bấy giờ, các nước cộng sản nổi bật lên như là những chế độ độc tài khác
thường trên thế giới. Sau các cuộc cách mạng 1989-91, Chỉ số Chính thể
trung bình của chúng đã tăng vọt, vươn tới điểm số 76 vào năm 2013. Ngày
nay, một nước hậu cộng sản trung bình được hưởng tự do của một nước
bình thường như người ta kỳ vọng, dựa vào mức lợi tức quốc gia của nó.
Có đến 6 nước hậu cộng sản có Chỉ số Chính thể cao nhất, ngang hàng với
Đức và Mỹ.
VƯƠN CAO HƠN NỮA
Các nước hậu cộng sản ngày nay còn lâu mới trở nên hoàn hảo. Nhưng
hầu hết các khuyết điểm của chúng cũng là thuộc tính tiêu biểu cho các
quốc gia có cùng một trình độ phát triển kinh tế. Trên nhiều mặt, các
nước này còn đạt được những thành tích tốt đẹp hơn, vượt ra ngoài các dự
đoán dựa vào lợi tức quốc gia. Và trong một số ít trường hợp tụt hậu,
các nước này gần như luôn luôn đi đúng hướng.
Xin lấy nạn tham nhũng làm ví dụ. Khu vực này thường xuyên bị đánh
giá rất thấp trên các chỉ số đo lường nạn tham nhũng mà người ta tin là
có thật [perceived corruption]. Thành tích yếu kém này là không đáng
ngạc nhiên vì những chỉ số đo lường nạn tham nhũng phần nào đã dựa vào
các cuộc thăm dò các nhà doanh nghiệp quốc tế, là những người có khả
năng bị lung lạc do cái hình ảnh bẩn thỉu của khu vực này được nêu lên
trên các phương tiện truyền thông toàn cầu. Nhưng các chỉ số của nạn hối
lộ được chính người dân của những nước hậu cộng sản này tường thuật
trong các cuộc thăm dò không tiết lộ danh tánh lại vẽ ra một bức tranh
khác hẳn. Những chỉ số này, mặc dù cao, vẫn là tiêu biểu cho các nước có
một mức lợi tức tương đương. Các cuộc thăm dò do tổ chức giám sát Minh
bạch Quốc tế [Transparency Internatonal] tiến hành từ năm 2010 đến năm
2013 cho thấy rằng số người thú nhận đã hối lộ quan chức tại một quốc
gia hậu cộng sản trung bình (23 phần trăm) là ít hơn con số trung bình
tại những nước khác (28 phần trăm).
Về xung đột vũ trang cũng thế, khu vực này không khác với những vùng
có cùng mức độ phát triển tương đương. Mặc dù chiến tranh đã xảy ra tại
Nam Tư cũ, Chechnya, và hiện nay tại Ukraine, các nước hậu cộng sản
không khác với các quốc gia có cùng một mức độ phát triển, trong khả
năng trải qua xung đột vũ trang hay nội chiến trong 25 năm qua. Các quốc
gia này cũng không cho thấy tỉ lệ tử vong cao hơn, cả trong chiến tranh
hay bạo động lẫn qua số liệu tuyệt đối hoặc tính theo đầu người. Và mặc
dù cuộc xung đột vũ trang tại Ukraine là quá mới để được tính vào những
con số này, nhưng nó không có khả năng thay đổi kết quả thống kê, trừ
phi chiến sự ở đó leo thang ra ngoài vòng kiểm soát.
Đằng sau những dữ liệu này, người ta còn chứng kiến tiến trình phi
quân sự hóa nhanh chóng của toàn khu vực: so với chi phí quốc phòng của
Liên Xô cũ có khi lên đến 25 phần trăm GDP, ngày nay không một quốc gia
kế tục nào của nó, kể cả Nga, có ngân sách quốc phòng vượt quá 5 phần
trăm GDP. Thậm chí khi liên minh của chúng tan rã, các quốc gia trong
khối Warsaw cũ đã cho giải ngũ một triệu binh lính.
Nạn lạm phát và thất nghiệp cũng là hai vấn đề khác cần được bàn
đến. Vào những năm 1990, hầu hết các nước hậu cộng sản đều kinh qua
những gian khổ do vật giá leo thang và nạn thất nghiệp tăng vọt. Tuy
nhiên, trước năm 2012, tình trạng lạm phát gần như đã được ổn định tại
hầu hết những nước này; tỉ lệ lạm phát trung bình của các nền kinh tế
hậu cộng sản trên thực tế đã rơi xuống dưới tỉ lệ lạm phát trung bình
toàn cầu. Và mặc dù nạn thất nghiệp tại các nước chuyển đổi chế độ này
vẫn còn cao hơn vài phần trăm so với các quốc gia có cùng trình độ kinh
tế, nhưng tỉ lệ này vẫn tiếp tục đi xuống kể từ khi chạm đỉnh khoảng năm
2000.
Những năm gần đây còn chứng kiến những cải thiện trong một lãnh vực
khác mà các nước hậu cộng sản đã từng tụt hậu so với phần còn lại của
thế giới: đấy là hạnh phúc của người dân. Theo đợt thăm dò mới nhất của
tổ chức Nghiên cứu các Giá trị Thế giới [the World Values Survey], được
tiến hành trong những năm 2010-14, các nước trong khối Đông cũ cũng sắp
bắt kịp thế giới về phương diện hạnh phúc. Tính trung bình, 81 phần trăm
dân chúng được hỏi ý kiến tại các nước hậu cộng sản cho biết rằng họ
hoặc là “rất” hoặc là “hoàn toàn” hạnh phúc, so với 84 phần trăm toàn
thế giới. Với mức lợi tức hiện có, người dân tại những nước này không
còn đặc biệt trầm cảm [particularly depressed] như trước – mặc dù họ vẫn
bày tỏ nỗi bất bình khác thường [unusual dissatisfaction] với công
việc, với chính phủ, cũng như với hệ thống giáo dục và y tế. Tỉ lệ tự
sát, mặc dù vẫn còn tương đối cao, đã giảm bớt đáng kể từ khi chế độ
cộng sản cáo chung.
CÁC QUI LUẬT VỀ SỰ THU HÚT GIỮA CÁC QUỐC GIA
Bài nghiên cứu các giá trị trung bình này làm lu mờ sự khác biệt to
lớn diễn ra từ khi tính đồng phục [uniformity] do Moscow áp đặt lên chư
hầu của mình cáo chung. Ngày nay, sự tương phản giữa các quốc gia hậu
cộng sản đa dạng này là rất rõ nét. Ba Lan đã trở thành một nước dân chủ
thị trường tự do có lợi tức quốc gia tăng lên hơn hai lần kể từ năm
1990; Tajikistan vẫn là một nước độc tài, trên mình còn mang thương tích
chiến tranh và cực kỳ nghèo khổ, do một nhà lãnh đạo duy nhất đứng đầu
suốt hơn 20 năm.
Một lý giải được lặp đi lặp lại nhiều lần về sự cách biệt giữa các
thành quả kinh tế là, tại một số nước các quan chức chính phủ đã phá
hoại hiệu quả bằng cách theo đuổi các cải tổ quá táo bạo. Theo luận cứ
này, một đường lối chậm rãi hơn, có bài bản hơn đã giúp một số nước khác
thực hiện các cuộc chuyển đổi thành công hơn. “Các chính sách theo
đường lối tuần tự [gradualist policies] sẽ ít gây thiệt hại trong ngắn
hạn, nhưng sẽ dẫn đến ổn định kinh tế và xã hội rộng lớn hơn, và thúc
đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh hơn trong dài hạn,” nhà kinh tế Joseph
Stiglitz đã lập luận trong cuốn sách ông xuất bản năm 2002, Globalization and Its Discontents
[Toàn cầu hóa và những nỗi bất bình]. “Trong cuộc chạy đua giữa con rùa
và con thỏ, hình như con rùa lại thắng cuộc một lần nữa.” Lý giải này
đã thu hút những người trong khối Xô-viết cũ khi họ nhận thấy các đặc
quyền của mình bị tiến trình tự do hoá đe dọa và những người ở phương
Tây mất lòng tin vào các thế lực kinh tế thị trường. Nhưng lý luận như
vậy là sai lầm: khoảng giữa thập niên 1990, các nước theo đuổi cải tổ
một cách nhiệt tình đã thành công vượt bậc so với những nước trì hoãn
cải tổ.
Chỉ nhìn sơ vào các dữ liệu cũng đủ cho ta hậu thuẫn kết luận này.
Để đo lường tiến độ của sự cải tổ, chúng tôi dựa vào các chỉ số được
Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu đưa ra, điều chỉnh chúng để
định cho mỗi nước một số điểm hàng năm từ 0 đến 100, tùy theo mức độ mà
nước đó tiến gần đến kinh tế thị trường tự do. Chúng tôi gọi những nước
vượt lên trên 40 điểm trong ba năm đầu của thời kỳ quá độ là “những nước
cải tổ triệt để [radical reformers].” Chín quốc gia hội đủ tiêu chuẩn
này: Cộng hòa Séc, Estonia, Hungary, Estonia, Ba Lan, Nga, và Slovakia.
Chúng tôi gọi những nước có điểm từ 25 đến 40 là những nước “cải tổ tuần
tự [gradual reformers],” và những nước chưa vươn tới 25 điểm là “những
nước cải tổ chậm [slow reformers].”
Việc so sánh thành tích kinh tế của ba nhóm nước này cho thấy rằng
những cải tổ nhanh chóng hơn và triệt để hơn sẽ giảm thiểu, chứ không
tăng thêm khó khăn kinh tế. Công bằng mà nói, khi bắt đầu quá trình
chuyển đổi, các nước thuộc nhóm cải tổ triệt để đã chứng kiến sự suy
giảm sản lượng trầm trọng hơn một chút so với các nước thuộc nhóm cải tổ
tuần tự. Nhưng sau ba năm, những nước cải tổ triệt để đã xốc tới phía
trước, vượt xa các nước cải tổ tuần tự. Trong khi đó, những nước cải tổ
chậm gặp nhiều khó khăn nhất và ngày nay tiếp tục tụt hậu so với hai
nhóm kia.
Cuối cùng những nước cải tổ tuần tự đã bắt kịp những nước cải tổ
triệt để, nhưng việc này chỉ xảy ra sau nhiều năm chịu thiệt thòi vì
phải trả giá đắt cho hiệu quả thấp [underperformance]. So với những nước
hăng hái đi theo thị trường tự do, những nước cải tổ tuần tự mất nhiều
thời gian hơn để lấy lại mức tiêu thụ hộ gia đình đã có trước đó và để
ổn định giá cả lạm phát. Và trong mức độ người ta có thể phán đoán, dựa
vào các dữ liệu thống kê hiện có, nạn thất nghiệp đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến những nước chậm cải tổ như Armenia và Madedonia, nghiêm trọng
hơn các nước khác cùng kinh qua thời kỳ quá độ. Nhìn chung, không có
bằng chứng nào cho thấy đường lối cải tổ tuần tự có thể giảm bớt sự nhức
nhối của quá trình chuyển đổi. Tất cả mọi dấu hiệu đều chỉ theo chiều
ngược lại: chính những con thỏ, chứ không phải những con rùa, đã thắng
cuộc đua. Nhiều con rùa cuối cùng cũng theo kịp, nhưng chỉ sau khi lặn
lội một hành trình gian khổ hơn.
Ngoài sự khác biệt vì cải tổ nhanh hay chậm, một mô hình nổi bật
khác phát sinh từ vị trí địa lý của một quốc gia ở trong khu vực. Những
tiên đoán trước đây, rằng tất cả các nước đang chuyển đổi rồi sẽ giống
các quốc gia phương Tây, đã không trở thành hiện thực. Quá trình hội tụ
quả thật đã diễn ra, nhưng ở hướng khác: giữa các nước hậu cộng sản và
các lân bang phi cộng sản. Trên nhiều phương diện, các quốc gia hậu cộng
sản đã trở nên tương tự với những nước phi cộng sản gần biên giới của
chúng nhất.
Những quốc gia Baltic xích gần với Phần Lan hơn, những nước trong
vùng Caucasus xích gần với Iran và Thổ Nhĩ Kỳ hơn. Những quốc gia Trung Á
trở nên gần giống với Afghanistan và Iran hơn. Những nước Trung Âu thì
xích gần với Áo và Đức hơn, nhưng thỉnh thoảng vẫn được các nước láng
giềng ở phía Đông níu kéo. Có vài ngoại lệ đối với mô hình này – đáng
lưu ý nhất là Belarus, một nước đã trở nên độc tài hơn so với những nước
hậu cộng sản láng giềng. Nhưng trong hầu hết mọi trường hợp, sau khi
thoát khỏi gọng kềm của Moscow, các chư hầu Xô-viết cũ đã nhanh chóng
bung ra, hội nhập vào môi trường khu vực của mình.
Các đặc tính của những nước láng giềng không cộng sản gần gũi nhất
của mỗi quốc gia vào thời điểm 1990 có thể gợi ý mạnh mẽ về đường hướng
phát triển sau này của quốc gia đó. Nếu xét đến khởi điểm của từng nước,
chúng ta sẽ thấy rằng hễ các nước láng giềng phi cộng sản càng giàu có,
càng dân chủ và càng tự do về mặt kinh tế, thì cuối cùng nước hậu cộng
sản đó sẽ trở nên giàu có, dân chủ và tự do về mặt kinh tế hơn trước. Sự
hội tụ này còn biểu hiện trong nhiều cung cách tế nhị hơn nữa – chẳng
hạn, trong tỉ lệ sinh viên đăng ký vào đại học, trong mức tiêu thụ rượu
cồn, và thậm chí trong tuổi thọ trung bình. Đôi khi, các nước láng giềng
còn ảnh hưởng trực tiếp lên viễn ảnh phát triển của những nước hậu cộng
sản này, như trường hợp quân chiến đấu Hồi giáo từ bên kia biên giới
Afghanistan tấn công vào Tajikistan hay khi các công ty Đức thành lập
các nhà máy sản xuất tại Cộng hòa Séc. Nhưng một động lực quan trọng hơn
thúc đẩy tính đồng qui này chắc hẳn là những đặc tính văn hóa cơ bản đã
có trước chế độ cộng sản và các biên giới quốc gia hiện nay.
NHỮNG KỲ VỌNG TO LỚN
Mười năm về trước, chúng tôi đã lập luận trong tạp chí này rằng Nga
đã trở thành “một quốc gia bình thường,” với các khuyết tật chính trị và
kinh tế tương tự khuyết tật của những quốc gia cùng trình độ phát
triển. Chúng tôi dự đoán rằng tăng trưởng kinh tế của Nga sẽ tiếp diễn,
đồng thời hiện đại hóa xã hội theo bước phát triển đó. Tiên đoán này đã
trở thành hiện thực: GDP tính theo đầu người của Nga đã tăng thêm 39
phần trăm kể từ năm 2004, và sự thâm nhập Internet tại Nga đã tăng lên 4
lần, qua mặt Hy Lạp.
Quay sang chính trị, chúng tôi phác họa hai kịch bản có thể xảy ra.
Kịch bản thứ nhất nêu lên “sự cạnh tranh ngày một gia tăng giữa các đảng
phái dân chủ và sự xuất hiện của một xã hội dân sự ngày một vững mạnh
hơn.” Kịch bản thứ hai tiên đoán một “sự tuột dốc hướng tới một chế độ
độc tài được quản lý bởi các cán bộ nhà nghề trong ngành công an dưới
chiêu bài của các thủ tục dân chủ hình thức.” Tiên đoán của chúng tôi
cho rằng Nga sẽ vạch ra một con đường nằm giữa hai thái cực này – một
tiên đoán hóa ra là quá lạc quan, xa vời thực tế. Cuối cùng, Tổng thống
Nga đã chọn phương án thứ hai.
Việc Putin chọn con đường độc tài rõ ràng làm cho Nga trở thành nguy
hiểm hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, việc này vẫn chưa làm cho Nga trở nên
bất bình thường về mặt chính trị. Thật vậy, trên một biểu đồ đối chiếu
chỉ số Chính thể [Polity scores] của nhiều quốc gia khác nhau với chính
lợi tức của chúng, Nga vẫn chỉ chệch hướng một chút so với mô hình tổng
quát. Đối với một nước có lợi tức quốc gia như Nga, chỉ số Chính thể dự
kiến vào năm 2013 là 76 trên thang điểm 100. Chỉ số thực của Nga là 70,
ngang hàng với Sri Lanka và Venezuela.
Nếu Nga thậm chí trở nên giàu có hơn nữa mà không chịu tự do hóa
chính trị, nó mới thực sự trở thành bất bình thường. Chỉ có ba nhóm nước
giàu hơn Nga hiện nay là các nước dân chủ phát triển, các nước độc tài
dầu lửa (hầu hết nằm trong vùng Vịnh Ba Tư), và các quốc gia đô thị
(city-states) như Singapore và Macao. Rõ ràng là Nga không thể trở thành
một quốc gia đô thị, và nó không có đủ tài nguyên thiên nhiên để trở
thành một nước độc tài kiểu Ả-rập. (Lợi tức từ dầu khí hàng năm của Nga
là 3.000 USD mỗi đầu người, so với 34.000 USD đối với Kuwait.) Vì thế
Nga hiển nhiên phải chọn giữa trải qua bế tắc kinh tế và theo đuổi phát
triển kinh tế song song với dân chủ hóa mạnh mẽ hơn trước. Hiện nay,
Điện Kremlin có vẻ quyết tâm đi theo lựa chọn thứ nhất, nhưng những lựa
chọn của nó có thể thay đổi theo thời gian.
Tuy vậy, chủ nghĩa độc tài ngày càng gia tăng của Nga chắc chắn
không làm cho thế giới sao lãng những tiến bộ ngoạn mục của khu vực hậu
cộng sản này nói chung. Hai mươi lăm năm về trước, những nước thuộc về
khối Đông tiêu biểu cho một trong hai nền văn minh loại trừ lẫn nhau
trên thế giới [an alternative civilization]. Vào lúc đó mà tưởng tượng
chúng nhanh chóng hòa nhập vào dòng chính toàn cầu [the global
mainstream], phải cần đến một sự bạo gan nào đó. Thời kỳ quá độ đã gây
ra không ít thất vọng. Nhưng nhìn chung, những thay đổi từ năm 1989 đến
nay là một thành công nổi bật.
Đã đến lúc phải xét lại cái cảm thức sai lầm về giai đoạn này. Những
cải tổ thị trường, những nỗ lực xây dựng dân chủ, những cuộc tranh đấu
chống tham nhũng đã không thất bại, mặc dù chúng vẫn chưa hoàn tất. Luận
điệu cho rằng một đường lối cải tổ kinh tế tuần tự sẽ có hiệu quả hơn
và ít gây đau đớn hơn đã bị các bằng chứng dữ liệu bác bỏ. Thời kỳ quá
độ hậu cộng sản không hề cho thấy sự bất cập của chủ nghĩa tư bản tự do
hay sự rối loạn chức năng của thể chế dân chủ. Nói đúng hơn, nó chứng
minh tính ưu việt và lời hứa hẹn trường tồn của cả hai.
______
ANDREI SHLEIFER là Giáo sư Kinh tế tại Đại học Harvard. DANIEL
TREISMAN là Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Calfornia, Los
Angeles, và là tác giả cuốn The Return: Russia’s Journey From Gorbachev to Medvedev [Trở về thế giới bình thường: Hành trình của Nga từ Gorbachev đến Medvedev.]
Hình: Baku, thủ đô Azerbaijan ngày nay
Nguồn: Dịch từ bản tiếng Anh: “Normal Countries. The East 25 Years After Communism”. Foreign Affairs số tháng Mười Một/Mười Hai 2014.
Bản tiếng Việt @ 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra