Hoàng Cầm
Viettel là một tập đoàn kinh tế của quân đội. Ảnh minh họa.
Trong tương lai không xa, các doanh nghiệp này sẽ tạo ra
một đế chế riêng, có thể đi theo con đường của quân đội Ai Cập
(với hơn nửa triệu binh lính, chi phối 1/3 nền kinh tế), và trở
thành những kiêu binh.
Vấn đề về nghĩa vụ quân sự trong thời gian qua được đặc
biệt quan tâm trở lại. Khi mà các mối đe dọa tiềm tàng ngày
một lớn, nhất là Trung Quốc.
Trong phiên làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam
sáng ngày 14/08 cũng đã bàn về Luật nghĩa vụ quân sự (sửa
đổi).
Nhiều ý kiến góp ý về việc gia tăng thời gian tại ngũ, mở
rộng đối tượng nhập ngũ… Vấn đề bình đẳng, sức mạnh quốc
phòng lại nổi lên. Nhưng thực chất nó là gì?
Việt Nam không phải là Hàn Quốc
Lâu nay, Việt Nam vẫn luôn nhấn mạnh nền quốc phòng toàn
dân, coi đó là sự cụ thể hóa chính sách quốc phòng. Chiến
lược này huy động mọi nguồn lực xã hội vào việc phòng thủ
quốc gia, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động xâm lược dưới mọi
hình thức, quy mô.
Việc tiến hành các đợt nhập ngũ (bắt buộc) hằng năm cũng phục vụ cho chính chiến lược đó.
Do vậy, trong thời gian gần đây, vấn đề về việc sửa đổi
Luật nghĩa vụ quân sự thu hút được nhiều sự quan tâm. Có một
điểm đáng lưu ý là nhiều ý kiến lại đồng tình về việc giảm
các đối tượng ưu tiên, yêu cầu công chức – viên chức, sinh viên
phải tham gia nghĩa vụ quân sự. Và coi đó là sự bình đẳng.
Tuy nhiên, có thật là “bình đẳng” hay không khi mà bản thân
khái niệm đó hầu như không căn cứ vào tình hình thực tế đất
nước. Cụ thể ở đây là, Việt Nam hoàn toàn khác so với Hàn
Quốc (đất nước mà một số vị đại biểu đem ra dẫn chứng về
tính kỷ luật trong nghĩa vụ quân sự của họ), khi không phải
đặt vào trạng thái chiến tranh thường trực. Vì vậy, đòi hỏi
huy động lực lượng trí thức “xếp búp nghiên lên đường”, hay vì
ngày trước “thỉnh thoảng tôi còn thấy gọi công chức, viên chức đi
nghĩa vụ quân sự” như bà Bộ trưởng Thương binh và xã hội Nguyễn
Thị Kim Ngân nêu ra. Để rồi, cứ “đến tuổi cứ đi nghĩa vụ quân sự
rồi về làm gì thì làm” như lời ông Chủ tịch Quốc hội, Nguyễn Sinh
Hùng nói trong phiên thảo luận Luật là hoàn toàn phi lý.
Phải chăng muốn khỏa lấp?
Trong khi đó, việc cho rằng, cần nâng cao chất lượng bộ đội
vì thế đòi phải lấy cán bộ, công viên chức, sinh viên từ năm
2015 lại càng không phù hợp thực tiễn. Ít nhất là nó khiến
cho xã hội bị quân sự hóa một cách không cần thiết, nếu đặt
nó bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng
nền kinh tế tri thức, cải cách thể chế, hành chính, các vấn
đề về văn hóa – xã hội – giáo dục. Mà đội ngũ có học vấn
cao, chuyên môn kỹ thuật, cán bộ công nhân viên chức là những
lực lượng nòng cốt trong vấn đề đó.
Suy cho cùng, nghĩa vụ quân sự, bên cạnh là sự thiêng liêng,
nhiệm vụ cao cả thì nó phải là một sự bình đẳng thực sự,
chứ không phải bình đẳng một nửa (trong đối tượng ưu tiên), và
bình đẳng đó phải căn cứ vào tình hình thực tiễn quốc gia,
cũng như thời đại (chủ yếu là thiết bị quân sự hiện đại, lực
lượng binh lính thiện chiến). Và hiểu theo một cách nào đó,
thì bình đẳng trong nghĩa vụ quân sự thực ra là cách nói khác
đi của nền quốc phòng toàn dân. Thế nhưng, thay vì tìm kiếm
yếu tố chất để phát huy tính bình đẳng tổng lực đó thì các
vị đại biểu Quốc hội lại hiểu thô hơn (theo việc đếm đầu
người nhập ngũ – về lượng).
Tại sao lại như thế? Có phải chăng việc đòi hỏi kiểu bình
đẳng như thế trong thực hiện nghĩa vụ quân sự đang khỏa lấp
một vấn đề nhức nhối ở quân đội Việt Nam hiện giờ, đó là
tính chính quy, tinh nhuệ?
Hậu quả quân đội làm kinh tế
Trong khi việc sửa lại nghĩa vụ quân sự đang có xu hướng kêu
gọi giảm đối tượng ưu tiên, gần như là đặt xã hội vào tình
trạng quân sự hóa thì vấn đề chấn chỉnh lại nhiệm vụ, tính
chính quy, tinh nhuệ của quân đội lại có nhiều vấn đề.
Trong dự thảo Luật nghĩa vụ quân sự, có đề cập đến việc
tăng thời gian tại ngũ lên 24 tháng (thay vì 18 tháng như trước
đây), điều này là cần thiết, nhằm đảm bảo người người lính
có thể nắm vững được kỹ thuật, chiến thuật, sử dụng thành
thạo các loại vũ khí trang bị, tạo ra tính chuyên nghiệp.
Nhưng việc tăng cường huấn luyện đối với người lính trong
thời gian nghĩa vụ quân sự liệu có tạo ra sức mạnh của nền
quốc phòng toàn dân không, khi mà bản thân nền quốc phòng đất
nước đang có xu hướng kinh tế hóa? Cụ thể, trong khi hầu hết
các quốc gia có nền quân sự mạnh trên thế giới, nghiêm cấm quân
đội làm kinh tế, và ngay cả nước láng giềng Trung Quốc cũng
cấm điều này từ năm 1998 thì Việt Nam lại cho phép quân đội
được làm điều đó thông qua các công ty, xí nghiệp thuộc Bộ
Quốc phòng từ năm 1975 đến nay.
Hiện tại, 40 doanh nghiệp Quân đội mẹ vẫn đang hoạt động
(hàng trăm công ty, xí nghiệp con), có mặt hầu hết trong việc
cung ứng các dịch vụ, sản xuất xã hội, từ dịch vụ viễn
thông, xây dựng nhà đất, khai thác khoáng sản, hải sản cho đến
sản xuất đồ dân dụng, dịch vụ du lịch, in ấn… Các doanh nghiệp
quân đội này tạo ra hàng trăm ngàn việc làm, dẫn đến sự
phình to ảnh hưởng ở trong nước lẫn bên ngoài. Tuy nhiên, đây
không phải là tín hiệu vui như nhiều người nhầm tưởng, mà
ngược lại, nếu vấn đề quân đội làm kinh tế không chấm dứt,
thì nó sẽ trở thành một hiểm họa bắt nguồn từ hai nguyên
nhân.
Đầu tiên, là sự tham gia của các doanh nghiệp quân đội khiến
cho tính cạnh tranh trong Luật Doanh nghiệp trở nên kém đi. Vì
có một luật ngầm dành riêng cho thể loại doanh nghiệp này, do
vậy hầu như nó vẫn được ưu ái hơn so với các doanh nghiệp tư
nhân, đặc quyền hơn so với các doanh nghiệp nhà nước khác, hay
nói cách khác, đặt trong sự cạnh tranh, thì doanh nghiệp quân
đội có những quyền hạn mang tính đặc trưng. Nhất là về ưu tiên
cấp đất đai sản xuất, đối tượng tiêu thụ, thuế, ưu ái trong
việc trúng thầu... lẫn trong thanh tra các vụ án liên quan đến
quân đội. Chính điều này tạo ra tính phi cạnh tranh trong môi
trường cạnh tranh. Đặt doanh nghiệp phi quân đội (nhất là doanh
nghiệp tư nhân) gặp nhiều khó khăn, làm giảm nguồn thu thuế,
ảnh hưởng đến ngân sách chu cấp cho nền quốc phòng hằng năm.
Vấn đề thứ hai, không phải ngẫu nhiên mà ở các quốc gia
lớn như Hoa Kỳ, Pháp, Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc… nghiêm cấm
quân đội làm kinh tế. Vì các nước đó xác định quân đội sinh
ra phải là lực lượng vũ trang, với sứ mệnh duy nhất là cầm
súng bảo vệ quốc gia, chứ không phải là xen ngang vào hoạt
động kinh tế, khiến cho nhiệm vụ chính bị chểnh mảng. Do đó,
khi một lượng lớn sĩ quan, binh lính thay vì tập trung vào
nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu thì giờ đây lại
nghiêng hẳn trọng tâm vào hoạt động kinh doanh sẽ gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính chính quy, tinh nhuệ trong quân đội vì nó
làm thất thoát nguồn lực con người trong bộ máy quốc phòng
đất nước trong nhiệm vụ chính. Trong khi đó, lại tìm cách bù
lấp sự thâm hụt về sức mạnh chính quy đó sang bên dân sự, khi
đưa công nhân viên chức nhà nước, sinh viên vào quân đội để huấn
luyện thường xuyên.
Tình trạng trên nếu kéo dài, thì trong tương lai không xa,
các doanh nghiệp này sẽ tạo ra một đế chế riêng và không chịu
bất kỳ sự kiểm soát nào; chi phối hoàn toàn nền kinh tế,
chính trị, làm tê liệt mọi cải cách xảy ra nếu đụng chạm đến
lợi ích quân đội (cổ phần hóa thông qua đề án 2013-2015); đi
theo con đường của quân đội Ai Cập (với hơn nửa triệu binh lính,
chi phối 1/3 nền kinh tế), và trở thành những kiêu binh.
Làm sao tinh nhuệ?
Từ năm 2007, ông Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, ngay trong hội nghị
TW 4 (khóa X) đã nhấn mạnh rằng, hiện nay việc cho phép quân
đội làm kinh tế là không còn phù hợp so với thời điểm (1975 –
1990) vì “quân đội hay công an cũng thế thôi, đều có nhiệm vụ chính trị
rất rõ ràng là phải tập trung bảo đảm an ninh quốc gia.”
Nhưng từ đó đến nay, vấn đề đưa quân đội trở lại nhiệm vụ
chính như thế nào? Hoàn toàn không có thay đổi, mà chỉ là sự
biến thể để quân đội ngày càng hoạt động sâu hơn, mạnh hơn
trong nền kinh tế thông qua sự vươn vai của các doanh nghiệp này
trong các lĩnh vực đời sống, đồng thời đi từ công ty, xí
nghiệp lên thành tập đoàn.
Trong khi đó, tại phiên thảo luận về dự thảo luật Doanh
nghiệp sửa đổi gần đây (21/04/2014), ông Nguyễn Kim Khoa, Chủ
nhiệm Ủy ban Quốc phong An Ninh lại cho rằng, quy định “sĩ quan,
hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ
quan, đơn vị thuộc quân đội và công an không được quyền thành lập và
quản lý doanh nghiệp” là không hợp thời.
Thực chất của nghĩa vụ quân sự chính là sự tăng cường sức
mạnh phản vệ tổng hợp, đồng thời, trong thời điểm xảy ra
chiến tranh thông qua sự duy trì huấn luyện chặt chẽ và khả
năng sẵn sàng chiến đấu trước đó. Muốn đạt được như thế, một
nền quốc phòng toàn dân cần sự tập trung vào tính tinh nhuệ,
chính quy, làm chủ được các trang thiết bị quân sự hiện đại
được mua bằng tiền thuế của dân, thực hiện tốt chiến lược
“bất cân xứng” với các nước có tiềm họa, thay vì là một nền
quốc phòng mang tính đại trà và “bình đẳng”, tạo cớ cho quân
đội hình thành nên những doanh nghiệp phá hỏng tính cạnh tranh.