Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013

Nguyễn Bá Thanh và giáo xứ Cồn Dầu



con dau da nang
Nguyễn Bá Thanh trở thành trưởng ban Nội chính Trung ương Đảng.
Đây là một sự kiện  thu hút sự chú ý của nhiều người quan tâm đến tình hình xã hội hiện nay. Nạn tham nhũng trở thành quốc nạn, tàn phá nền kinh tế vốn đã yếu kém của đất nước. Tham nhũng đã phá bỏ những giá trị đạo đức lâu đời của dân tộc. Tham nhũng cũng đe dọa sự còn mất của Đảng và chế độ (như nhiều cán bộ và đảng viên đã thừa nhận). Bởi vậy, người ta kỳ vọng ở ông Nguyễn Bá Thanh cũng là điều dễ hiểu.
Đã có quá nhiều các bài viết về con người, về những thành tích trong quá khứ và hiện tại, cùng những mong đợi sắp tới đối với ông. Bài viết này chỉ đề cập đến một sự kiện mà ông là quan chức cao nhất của Đà Nẵng  trực tiếp chịu tránh nhiệm. Đó là giáo xứ Cồn Dầu.

Vài nét lịch sử
Vài trăm năm trước, phía nam thành phố Đà Nẵng, phía đông-nam của sông Cẩm Lệ, bên bờ nam của dòng Đại Giang (Sông Cái Đò Xu hiện nay) có một vùng cát bồi hoang dã, khô cằn hình chữ V theo chiều đông – tây, dài khoảng 800 m, rộng khoảng 600 m, nhọn hẹp dần về phía tây. Trên bãi cát bồi (cồn) này, các loại cây thích hợp với thổ nhữơng phèn mặn như sậy, lau lách, vẹt, ô rô … mọc chen chúc. Bãi cát này được gọi là Cồn Dầu. Có hai giả thuyết về cái tên Cồn Dầu. Giả thuyết thứ nhất kể rằng, trên đây đã mọc lên một cây dầu lai rất cao, từ xa đã nhìn rõ. Gỉa thuyết thứ hai cho rằng nơi đây thường tập trung nhiều ghe thuyền họp chợ bán dâù rái, một loại dầu để trét thuyền khỏi thấm nước.
Thời vua Tự Đức trị vì (1847 – 1883), vua ban chỉ dụ cấm đạo Kitô Giáo, có hai gia đình ngư dân theo đạo người bắc là Phan Văn Đô và Hồ Văn Bạn, đã xuôi thuyền vào nam lánh nạn. Họ đã dừng chân nơi đây, sinh sống bằng nghề bắt cá ven sông Cái Đò Xu. Dần dà hai gia đình này đã phát quang, dựng lán trên cồn làm nơi tạm cư và trồng các loại hoa màu ngắn ngày như ngô, khoai, sắn, đậu … nhưng chủ yếu vẫn sống bằng nghề đánh cá.
Sau khi phong trào Cần Vương (1885) suy yếu, triều đình nhà Nguyễn phải ra chiếu chỉ tha đạo, gia đình ông Đô và Bạn lên thuyền trở về quê hương, để lại phần đất đã khai hóa cho một người giúp việc tại địa phương thụ hưởng.
Tại Quảng Nam, để tồn tại, hai xứ đạo Phú Thượng và Trà Kiệu đã phải
đứng lên để tự vệ trước chủ trương diệt đạo của phong trào Cần Vương. Giáo dân từ các xứ đạo khác về đây lánh nạn rất nhiều, trong đó có giáo dân Trung Tín và các họ đạo khác của các tỉnh  Quảng Ngãi, Quảng Nam…
Nhiều người không thể trở về quê hương. Tại giáo xứ Phú Thượng, thấy dân không thể sống nổi với đất gò đồi, cha xứ người Pháp lúc ấy là Jean Maillard (tên Việt Nam là Cố Thiên) đã làm đơn xin chính quyền cho phép khai hoang, vỡ hóa khu đất nhiễm phèn ở Cồn Giu Hội (nay thuộc xóm B Cồn Dầu). Cha sứ Cố Thiên còn mua thêm 20 ha đất của làng lân cận để giáo dân có ruộng đất làm ăn sinh sống. Giáo hội lo những việc lớn như đắp đê, dẫn thủy nhập điền, thuế má, hỗ trợ khi mất mùa…
Năm 1985, cha Cố Thiên được chính quyền cho phép quy dân, lập ấp mở làng trên toàn bộ bãi cát Cồn Giu Hội, vũng cạn bao chung quanh và cồn cát bồi mà hai gia đình giáo dân đánh cá người bắc lánh nạn đã từng trú ngụ. Từ đây xứ đạo Cồn Dầu hình thành và phát triển.
Để thành lập một giáo xứ, việc xây dựng ngôi thánh đường là cấp thiết. Cố Thiên đã cho dùng những vật liệu tại chỗ như tranh, tre, rạ để dựng lên  ngôi nhà thờ nhỏ tại góc tây nam của Cồn Giu Hội. Đây đã là nơi tham dự kinh lễ, nghe giảng dậy, hội họp của những giáo dân Cồn Dầu buổi ban đầu.
Để tồn tại và phát triển, dưới sự dẫn dắt của cha sứ Cố Thiên, giáo dân Cồn Dầu đã phải vừa khai khẩn đất đai, vừa đắp đê ngăn nước mặn để cầy cấy được hai vụ.
Năm 1930, nhà thờ Cồn Dầu bằng tranh tre được thay bằng nhà thờ có khung sườn bằng gỗ lim, tường xây bằng vôi gạch, lợp ngói âm dương.
Năm 1950, cha quản xứ Cố Mỹ (Paul Espie) cho xây trường tiểu học trong khuôn viên nhà thờ. Năm 1970, do nhu cầu phat triển, cha Mừng đã xây lại và nới rộng một trường mới, trường có 5 lớp tiểu học, lấy tên Phaolo VI, trực thuộc trường Sao Mai Đà Nẵng.
Ngày 15-08-1954, cha Tadeo Nguyễn Hữu Mừng về cai quản giáo xứ, mở ra một trang sử mới cho Cồn Dầu.
Việc đầu tiên là ngài huy động giáo dân làm con đường Bờ Họ, rộng rãi, thẳng tắp , băng qua cánh đồng, nối Cồn Giu Hội (xóm B) với nhà thờ (xóm A). Con đường cao ráo, rộng rãi , thẳng tắp , hai bên đường đồng lúa xanh mượt nối liền hai xóm, thuận lợi cho việc đi lại, vận chuyển, canh tác…. Năm 1973, Bờ họ được lát bê tông, sạch đẹp.
Khi xây dựng xong đường Bờ Họ, vào năm 1958 cha xứ Nguyễn Hữu Mừng đã nghĩ đến việc chỉnh đốn nghĩa trang Cồn Dầu. Nghĩa trang đã có từ thời cha xứ Cố Thiên, việc chôn cất trước đây là hoàn toàn do mỗi gia đình người chết tự do lựa chọn địa điểm và xây cất. Nay mỗi tộc họ chọn một khu vực trong nghĩa trang, quy các mộ tổ tiên, thân nhân của mình về khu vực đó, xây theo hàng lối quy định. Xung quanh nghĩa trang trồng dương liễu, có cổng và hàng rào bảo vệ. Các lối đi hình chữ thập giữa nghĩa trang được trồng hoa trúc đào và lan đất. Trước năm 1975, nghĩa trang Cồn Dầu  được xếp vào loại nghĩa trang đẹp nhất tỉnh Quảng Nam, hơn hẳn cả nghĩa trang Đà Nẵng.
Năm 1960, nhà thờ cũ đã được xây dựng từ năm 1930 đã được tháo dỡ thay vào đó là ngôi nhà thờ mới, đươc xây dựng trên nền nhà thờ cũ. Kinh phí lấy từ tiền nhà chung bán lúa ruộng giáo hội, tiền viện trợ của tổ chức công giáo cùng với sự đóng góp của giáo dân trong giáo xứ. Nhà thờ mới rộng lớn hơn nhiều so với nhà thờ cũ.
Cũng trong năm 1960, cha sở và giáo dân Cồn Dầu đã dựng một hang đá Đức Mẹ Lộ Đức trong khuôn viên nhà thờ. Hang đá được thiết kế hài hòa với thiên nhiên, là một trong những hang đá Đức Mẹ đẹp nhất trong giáo phận Đà Nẵng.
Năm 2004,  giáo dân Cồn Dầu đã lên đến hơn 1500 tín hữu, ngôi nhà thờ cũ đã trở nên chật chội, lại bị xuống cấp hư hỏng nhiều chỗ, cha quản xứ Giuse Nguyễn Kính đã huy động sức người sức của trong toàn giáo xứ, kể cả những người con ly hương để xây dựng ngôi nhà thờ mới. Dự kiến ban đầu là sửa chữa, làm mới từng phần, nhưng nhờ lòng nhiệt thành đóng góp của giáo dân, ngôi nhà thờ đã được hoàn tất ngoài sức tưởng tượng, mới và to đẹp hơn. Trong ngày khánh thành, mọi người đều phải thốt lên: ‘’Thật chỉ nhờ ơn Chúa mà thôi”.
Thiếu tầm nhìn hay bị sức ép của nhóm lợi ích
Như đã giới thiệu ở phần trên, giáo xứ Cồn Dầu đã tồn tại và phát triển cùng với những thăng trầm lịch sử của đất nước và dân tộc. Nơi đây đã ghi lại dấu ấn của giao lưu văn hóa đông-tây (ki tô giáo được các nhà truyền giáo phương tây mang đến). Nơi đây cũng chứng kiến một cộng đồng, với một niềm tin tôn giáo không lay chuyển, đã vượt qua những thử thách cam go nhất-luật cấm đạo của triều đình-để sống còn và phát triển. Nơi đây đã chứng minh rằng, một cộng đồng đoàn kết, được hướng dẫn bởi những người đại diện cho tinh thần và lý tưởng của mình-những cha quản xứ-có thể vượt qua mọi khó khăn, tạo dựng một cuộc sống tốt đẹp, nền nếp. Cồn Dầu còn là một thắng cảnh được tạo bởi bàn tay con người và thiên nhiên. Làng quê, những cánh đồng lúa xanh mượt, ngôi nhà thờ, bờ đê, tiếng chuông chiều ngân vang, từng đoàn giáo dân đi lễ… soi bóng trên dòng sông trong xanh, uốn khúc.
Một xứ đạo Cồn Dầu như vậy cần và nên được bảo tồn và tôn tạo.
Nhưng có thể chính quyền Đà Nẵng, đứng đầu là ông Nguyễn Bá Thanh với tầm nhìn hạn hẹp, không thấy hết được giá trị văn hóa, lịch sử của giáo xứ Cồn Dầu. Đối với họ, 100 ha của Cồn Dầu để xây dựng khu đô thị sinh thái quan trọng hơn nhiều. Đà Nẵng đã có nhiều khu đô thị như Đảo Nổi, Đảo Xanh, DAEWON Đa Phước, Ecovico Đà Nẵng, FPT Đà Nẵng, Golden Hill … Nhưng  khu đô thị sinh thái Hòa Xuân sẽ đưa Đà Nẵng đạt những kỷ lục của thành phố ’’đáng sống nhất” Việt Nam, với khu tắm bùn suối nước nóng đạt tiêu chuẩn quốc tế rộng 36 ha (!)
Chính quyền Đà Nẵng còn cho công an đàn áp những người dân Cồn Dầu, những người kiên quyết bảo vệ đất đai nhà cửa của họ. Cướp quan tài trong đám tang một cụ bà 82 tuổi…. Hơn 50 tín đồ của giáo xứ Cồn Dầu đã phải chạy sang Thái Lan lánh nạn. Trước cộng đồng thế giới, chính quyền Đà Nẵng trở thành một chính quyền mang bộ mặt độc tài, đàn áp tôn giáo.
Dư luận xã hội và nhân dân xã Hòa Xuân cho rằng, bàn tay của các tư sản đỏ tạo ra dự án và được chính quyền tiếp tay.
Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh quê ở xã Hòa Xuân kể: ”Xã Hòa Xuân của tôi nằm sát cạnh Đà Nẵng nhưng lại bị chia cách bởi con sông Cẩm Lệ nên rất là quê mùa và khốn khó trăm bề. Dân quê tôi từ bao đời luôn mơ ước một chiếc cầu bắt qua bến Đò Xu, nối liền với Đà Nẵng để đổi đời. Sau gần 30 năm hòa bình, cho mãi đến những năm đầu thế kỷ 21 thì ước mơ cỏn con ấy mới chuẩn bị thành hiện thực. Cây cầu bắt qua Đò Xu được triển khai thi công. Cọc đóng qua sông, chuẩn bị đúc đà và lao dầm. Dân quê tôi hân hoan mừng rỡ, mong ngóng từng ngày để chờ lúc cây cầu vươn ra nối đôi bờ. Thế nhưng sau đó chẳng hiểu vì sao, công trình được lệnh của ông Thanh cho ngừng lại, cọc đóng xuống rồi lại cho nhổ lên. Dân cả xã bàng hoàng thất vọng và không biết chuyện gì đã xẩy ra. Mãi về sau thì dân quê tôi mới vỡ lẽ ra. Vì có một nhóm tư sản đỏ nào đó đề nghị quy hoạch toàn xã Hòa Xuân thành một khu du lịch sinh thái nên phải ngưng ngay chuyện làm cầu để trả tiền đền bù thấp và để giải tỏa dân. Sau đó toàn xã nhận đền bù với giá rẻ mạt rồi chuẩn bị dọn đi. Lúc ấy bản vẽ cây cầu khác bắt qua xã Hòa Xuân đã nằm trên bàn ông Thanh. Khi xe ủi  bắt đầu đến ủi nhà dân, thì cây cầu cũng bắt đầu được thi công và chỉ sau một năm thì hoàn thành. Người dân Hòa Xuân nhìn chiếc cầu Hòa Xuân to đẹp bắt qua sông Cẩm Lệ, nối liền quê nghèo của mình với thành phố Đà Nẵng mà ngậm ngùi cay đắng. Té ra cây cầu được xây lên không phải để phục vụ người dân nghèo khó bao đời theo cách mạng ở đây mà để phục vụ cho dự án gọi là du lịch sinh thái, nghĩa là phục vụ cho nhóm lợi ích trùm tư sản đỏ. Đền bù người dân chỉ vài chục ngàn một mét vuông, thế mà chỉ mới phân lô trên bản vẽ, các ông trùm này đã rao bán mỗi mét vuông đến hơn 10 triệu đồng. Người dân mất nhà và mất ruộng quê tôi nay thất nghiệp đã chửi đổng lên: Khu du lịch sinh thái cái đếch họ, cũng chỉ là một tuồng ’thành kính phân lô’ để chia chác lợi khủng.”(1)
Chủ nghĩa tư bản hoang dã
Chúng ta hãy đọc một một đoạn quảng cáo bán đất tại khu đô thị sinh thái Hòa Xuân mà chính quyền Đà Nẵng đã xóa sạch 4 làng, trong đó có giáo xứ Cồn Dầu để lấy đất cho khu đô thị này:
”Cần bán nhiều lô đất khu đô thị sinh thái Hòa Xuân, tại đảo 1, diện tích 5×20 và 5×24 giá 10 triệu/m2… Khu đô thị sinh thái Hòa Xuân được quy hoạch tại phường Hòa Xuân, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Dự án được đặt tại vị trí  vô cùng đắc địa về mặt phong thủy cũng như về mặt cảnh quan. Gần Ngũ Hành Sơn và tọa lạc tại ngã ba sông Hàn, sông Cẩm Lệ và sông Cổ Cò với ba mặt giáp sông, hài hòa giữa phong cảnh sông và núi…”
Vị trí đắc địa của Hòa Xuân tất nhiên làm những nhà tư sản địa ốc nước ngoài và trong nước quá thèm khát. Nhưng nếu không có sự đồng lõa của những tư sản đỏ, những nhóm lợi ích và chính quyền Đà Nẵng dựa vào luật đất đai trái quy luật, vô đạo lý tiếp tay, chắc chắn họ cũng chỉ đứng để nén nhịn những cơn thèm khát.
Để quy hoạch  khu đô thị ”sinh thái” với diện tích tới 430 ha, chính quyền Đà Nẵng buộc di dời khoảng 2000 hộ, 8000 ngôi mộ, san bằng nhà cửa,  ruộng vườn, cây cối của 4 làng. Đây là những làng xóm của những người dân, mà tổ tiên của họ đã theo các chúa Nguyễn đi mở mang bờ cõi, tạo lập cách đây đã ba bốn trăm năm. Bởi vậy, nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả tổ tiên… đối với họ là thiêng liêng, vô giá.
Người dân Hòa Xuân phải đào bới 8000 ngôi mộ đang mồ yên, mả đẹp của cha ông, vận chuyển đến chôn ở một vùng đất mới. Đối với những người biết thành kính đối với người chết, tôn trọng tín ngưỡng và tập tục của dân tộc thì đây là việc làm, mà chỉ nghĩ đến đã lạnh xương sống. Điều mà ông cha chúng ta kiêng kỵ nhất là động mồ động mả.
Khi một thành phố phát triển, việc các vùng lân cận đô thị hóa là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, việc quy hoạch và phát triển đô thị đòi hỏi phải tôn trọng di tích lịch sử, văn hóa của địa phương. Những ai đã có dịp đến các thành phố ở châu Âu, có thể thấy, cách trung tâm thành phố không xa, những nghĩa trang cũ của người dân bản địa hay của người Do thái di cư có từ mấy trăm năm trước đây, được bảo tồn, có tường xây xung quanh, trồng cây hoa rất đẹp. Các khu dân cư, nhà hàng, siêu thị… phát triển quanh đó vẫn hài hòa, đẹp mắt. Như vậy có thể nói rằng, chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở châu Âu cách đây mấy trăm năm cũng không hoang dại như cái chủ nghĩa tư bản mà những người cộng sản đang xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
Vài lời nhắn gửi
Ông Nguyễn Bá Thanh đã ra Ba Đình.
Không ai có thể phủ nhận những cố gắng của ông đã đưa Đà Nẵng trở thành thành phố sạch, đẹp, phát triển về kinh tế giáo dục, y tế… Nhưng Cồn Dầu là một góc tối của ông.
Hãng thông tấn AFP của Pháp đã bình luận về ông: ”Thế nhưng nhiều người đồng ý rằng, ông Thanh có những tài  năng hiếm có ở một đất nước nghẹt thở về nạn quan liêu.” Ngoài Ba Đình, nạn quan liêu còn nghẹt thở hơn ở Đà Nẵng của ông nhiều lắm! Lại nạn quan tham, quan gian hoành hành từ phường, xã, huyện, tỉnh đến hội 14 ”ông vua tập thể”.
Ai đã sinh ra những tệ nạn trên đây?
Chính cơ chế sinh  ra và nuôi dưỡng chúng.
Ai đã đẻ ra cơ chế?
Chính là Đảng của ông.
Vì vậy, muốn trừ bỏ tận gốc nguyên nhân của những tệ nạn trên đây, phải thay đổi Đảng của ông. Đảng phải chấp nhận cơ chế xã hội tự do dân chủ, đoạn tuyệt với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Max-Lenin đã lỗi thời, trả lại quyền lực cho nhân dân, cùng với các đảng khác tranh đua quyền lãnh đạo thông qua tự do bầu cử.
Ông là một người dám nói, dám làm. Liệu nhân dân có gửi gắm những hy vọng nơi ông?
Warsaw tháng 01-2013
© Đinh Minh Đạo
© Đàn Chim Việt
——————————
Chú thích:
(1) Huỳnh Ngọc Chênh: Lan man về sự kiện Nguyễn Bá Thanh
quê choa 11-01-2013
Tài liêu tham khảo:
1- Lịch sử giáo xứ Cồn Dầu.
Kênh thông tin Đại chủng viện Huế
2- Lược sử giáo xứ Cồn Dầu.
Trang Web giáo phận Đà Nẵng

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"