Lê Phú Khải
Dư luận trong, ngoài nước đang chăm chú theo dõi, lên tiếng về cái án
tử hình dành cho anh Hồ Duy Hải, người được toà án phán quyết đã giết
cô Hồng 24 tuổi, và cô Vân 22 tuổi ở Bưu điện Cầu Voi huyện Thủ Thừa
tỉnh Long An.
Báo “lề phải”, các trang mạng “lề dân” đều đồng thanh lên tiếng phải
xét xử lại, điều tra lại vụ án này vì nó chứa đựng quá nhiều mâu thuẫn,
vô lý, “làm sai lệch hồ sơ vụ án”, v.v.
Mẹ của đương sự là bà Nguyễn Thị Loan đã đội đơn đi kêu oan khắp
chốn sáu năm liền. Hình ảnh bà Loan căng biểu ngữ trước ngực đi kêu oan
cho con được đăng trên nhiều trang mạng xã hội.
Bức xúc hơn cả là giới luật gia, vì họ hiểu luật pháp và các bước đi
trong quá trình điều tra một vụ án cần phải có như giám định vân tay
ngay khi xảy ra án, phân tích mẫu máu, tình tiết ngoại phạm của bị cáo,
vân vân và vân vân…
Trả lời báo Lao động ngày 24.11.2014, luật sư Trần Văn Tạo, nguyên
là Phó Giám đốc Sở Công an TP HCM đã nói: Tôi đã viết thư cho Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang về vụ việc này…
Luật sư Trần Hồng Phong thuộc đoàn luật sư TP HCM, người được gia
đình Hồ Duy Hải mời hỗ trợ tư pháp, đã có đơn xin xem xét lại bản án
theo thủ tục giám đốc thẩm bản án phúc thẩm 281/2009/HSPT… gửi lên Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Đọc bản tường trình phân tích những điều vi phạm, làm sai lệch hồ sơ
vụ án… dài hàng chục trang giấy của luật sư Phong, người đọc không khỏi
bàng hoàng!
Vì lẽ trên, trong bài viết này, tôi muốn ôn lại những vụ án oan sai
đã từng xảy ra ở nước ta, nhưng nhờ những cán bộ có trách nhiệm trong
ngành kiểm sát, thanh tra, điều tra có phẩm chất và dũng khí đã mang lại
công bằng cho hàng trăm con người, nếu không họ sẽ phải chịu những oan
khuất khủng khiếp do bị ép cung, bị tra tấn đánh đập mà phải “nhận tội”!
Có lẽ, điển hình nhất là phải kể đến vụ án mang tên: Vụ gián điệp “H122”,
năm 1948. Trong vụ này, hàng trăm cán bộ vô tội của ta trong kháng
chiến chống Pháp bị bắt giam, do họ bị ép cung, đánh đập mà phải “nhận
tội”!
Sự việc tóm tắt như sau: Một tin đồn do Pháp tung ra đã lan truyền
trong khu Việt Bắc là có một gián điệp mang bí số H122 đã được Pháp gài
vào hàng ngũ ta, và H122 đã cung cấp nhiều tin quân sự quan trọng cho
Pháp…
Một anh giám mã (coi giữ ngựa) cho một cơ quan, đã bị nghi ngờ là
H122. Lý do nghi ngờ rất đơn giản: anh ta đã chạy ra sân lấy vào một cái
khăn màu trắng trong lúc có tiếng máy bay của Pháp trên trời. Người ta
nghi anh làm ám hiệu bằng chiếc khăn màu trắng cho máy bay đến. Thế là
anh giám mã bị bắt, bị bức cung. Anh ta đã nhận mình là H122, rồi khai
ra những người khác. Cứ thế, người bị bắt mới lại khai tiếp… Con số bị
bắt đã lên đến hàng trăm, kể cả cán bộ cao cấp và cả… một bà bán xôi
(!).
Trưởng ban kiểm tra trung ương Đảng Trần Đăng Ninh đã vào cuộc. Ông
Trần Đăng Ninh đã đến tận hiện trường và xem xét rất kỹ. Ông thấy rất
nhiều điều vô lý. Pháp không thể gài người vào ta lại chọn một anh chăn
ngựa không biết chữ. Cái sân bé tí trước nhà anh chăn ngựa giữa rừng núi
âm u thì không máy bay nào trên trời có thể nhìn thấy một cái khăn màu
trắng… Cứ thế, cứ thế, Trưởng ban kiểm tra trung ương Đảng xem xét, điều
tra cụ thể, quyết liệt, và đã ra lệnh thả mấy trăm “phạm nhân” đang bị
giam. Người ta đã gọi ông Trần Đăng Ninh là “Bao Công Việt Nam” từ vụ án
đó.
Sau hoà bình 1954, ông Trần Đăng Ninh đã đi máy bay và cố nhìn xuống
dưới để xem có thể một cái “khăn trắng” nào không, và sau đó, ông đã
rất “yên tâm” là mình đã xử án đúng!!!
Ông Nguyễn Thanh, nguyên Cục trưởng Cục Xử lý tin tức Bộ Công an,
nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Việt Nam đã viết và xuất
bản một hồi ký về Trần Đăng Ninh, trong đó kể tỉ mỉ về vụ án có một
không hai này.
Vụ thứ hai, cũng rất điển hình, phức tạp, quyết liệt và đầy kịch tính, xảy ra vào năm 1963-1964, là Vụ án ở Nhà máy cơ khí xe lửa Gia Lâm Hà Nội.
… Giám đốc Võ Văn Khang bỗng dưng bị chết. Tám cán bộ đảng và công
đoàn nhà máy bị bắt, vì Giám đốc công an Hà Nội lúc đó là ông Long, cho
đây là vụ giết người. Bức cung khốc liệt, và cả tám người này đều “nhận
tội”. Thế là án đã “nhanh chóng được phá”. Thành tích được mau chóng báo
cáo lên các cấp trên để được khen ngợi.
Nhưng Đại uý Tích ở Công an Hưng Yên khi khám nghiệm tử thi nạn nhân
được vớt lên ở cửa sông Hồng đã quả quyết báo cáo lên Cục trưởng Cục
Cảnh sát Lê Hữu Qua là nạn nhân đã tự sát. Cục trưởng Qua lúc đó đã yêu
cầu Đại uý Tích làm tường trình, và ông cùng đồng nghiệp kiên quyết
chống lại kết luận giám đốc Khang bị giết. Được Thứ trưởng Lê
Quốc Thân ủng hộ, Giám đốc Công an Hà Nội là ông Long cũng quyết đấu lại
Cục trưởng Lê Hữu Qua, được Đại uý Tích phu tá và được Cục trưởng Lê
Hồng Hà ủng hộ quan điểm.
Cuộc đấu tranh để tìm công lý này vô cùng cam go, và nó kéo dài đến bốn năm. “bất phân thắng bại”.
Cục trưởng Lê Hữu Qua sau này kể lại:
…Có lần Trưởng ban tổ chức trung ương Lê Đức Thọ đã gọi chúng tôi
đến bắt báo cáo thật cụ thể. Cục Cảnh sát nhân dân đã phải chở một xe
tải “đạo cụ” đến nhà riêng ông Thọ để “diễn” lại hiện trường vụ án theo
quan điểm của chúng tôi, y như một gánh hát tuồng! Cả tiết lợn cũng phải
mua về để rắc lên nền, giả làm vết máu người. Xem kỹ, nghe kỹ, ông Thọ
ra lệnh tiếp tục làm sáng tỏ. Cả những ám hiệu định giết người diệt khẩu
mà tôi biết cũng được báo cáo ngay với ông Thọ để ngăn chặn. Có cuộc
họp cả Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn dự để nghe hai bên, một bên là Lê Quốc
Thân và Giám đốc Công an Hà Nội, một bên là tôi và các đồng nghiệp của
Cục, đã tranh cãi quyết liệt. Lê Quốc Thân đã chỉ vào tôi mà quát: Kéo
dài vụ án thế này, Lê Hữu Qua phải là người chịu trách nhiệm hoàn toàn.
Khi một bác sĩ pháp y, nguyên là thiếu tá của chính quyền Bảo Đại phát
biểu trong cuộc họp, ông ta đập tay vào cái bảng lớn treo trên tường và
hét lên: – Nếu nạn nhân bị giết thì đốt hết sách vở đi! Nói xong ông ta
lấy thuốc độc trong túi ra… nuốt, và chết tại chỗ! Bác sĩ giáo sư Tôn
Thất Tùng hoảng quá, rút khăn tay trong túi quần ra lau mồ hôi như tắm
trên mặt. Các gói mì chính (bột ngọt) để khi ông ăn phở cho vào rơi lả
tả theo xuống nền nhà. Tôi phải nhặt các gói mì chính đó bỏ vào túi áo
của ông và nói: – Giáo sư cứ bình tĩnh phát biểu.
Bốn năm trời tranh cãi, hồ sơ biên bản vụ án đã lên cả tạ giấy. Bất
phân thắng bại nên cuối cùng phải mời một đoàn chuyên gia của Bộ Công an
Cộng hoà Dân chủ Đức sang giúp. Người Đức đã đi một chuyên cơ gồm 10
chuyên gia các lĩnh vực. Trong đó có một chuyên gia được mệnh danh là
“chuyên gia thắt cổ”. Ông này có một bộ sách dày, có hình vẽ và ghi chép
tỉ mỉ các vụ án thắt cổ có từ thời Hy-Mã cổ đại đến sau này. Với ông
chuyên gia này, chỉ cần nhìn hiện trường có người thắt cổ, ông có thể
kết luận đúng đến 50% là nạ nhân bị thắt cổ hay tự thắt cổ. Những chuyên
gia Đức khẳng định rằng, hung thủ luôn để lại dấu vết ở hiện trường. Và
đã có dấu vết thì nhất định tìm ra hung thủ. Và quả thật, chỉ sau một
thời gian ngắn, vụ án đã được làm sáng tỏ với những luận cứ khoa học
không thể chối cãi, không thể tranh luận gì nữa. Tám cán bộ “nhận tội”
khi bị bắt đã đwocj tha bổng.
Cục trưởng Qua kể đến đây thì cười và nói tiếp: Vụ án này đã đwocj
đưa vào giáo trình của ngành tư pháp nhiều nước, có cả nước Mỹ nữa (!).
Trước khi về, người Đức chỉ khuyên ta không nên đổi tên đường, tên làng, tên xóm… Vì như thế sau này rất khó phá án!
Một thời gian ngắn sau khi kết thúc vụ án, tôi đến chơi với Cục
trưởng Qua. Từ trên tầng ba (miền Nam kêu là lầu hai) nhà tập thể, ông
chỉ tay sang phía đường Trần Hưng Đạo, nơi có trụ sở Công an Hà Nội nói:
Hôm nay Hà Nội tiễn Giám đốc Long đi nhận nhiệm vụ Trưởng ban Dân quân
tự vệ Tổng cục Đường sắt, thôi không làm Giám đốc Công an Hà Nội nữa!
Vụ án Nguyễn Thanh Chấn, bị bắt và tù đã 10 năm về
tội “giết người”, bỗng kẻ giết người ra đầu thú nên ông Chấn được tha…
vừa diễn ra mới gần đây, tuy không liên quan đến nhiều người, nhưng tính
nghiêm trọng của nó phải được quan tâm đặc biệt, vì nó xảy ra ở thời @,
khoa học hình sự ở nước ta đã trang bị hiện đại. Vậy mà…
Riêng bản thân người viết bài này có một kỷ niệm không bao giờ quên
về một án tử hình. Số là, cô con dâu của tôi ở Mỹ Tho, vô tình đã được
một bà đi thăm nuôi chồng là ông Đặng Kim Bền ở An Giang đã gần 70 tuổi,
bị toà án Tiền Giang kết án tử hình, sau giảm xuống chung thân. Lý do
thật không có gì nghiêm trọng. Ông Bền mang một bó cây bù-đà đi bán, bị
bắt ở Tiền Giang. Bị kết án tử hình, sau giảm xuống chung thân.
Bù-đà là một thứ cây nếu lấy lá vấn để hút thì gây nghiện. Nó hoàn
toàn không phải là thuốc phiện hay ma tuý. Vậy mà Toà án tỉnh Tiền Giang
lúc đó, với một nữ Chánh án, đã xử nặng ông Bền đến mức tối đa như thế.
Con dâu tôi đã hứa với bà vợ ông Bền là, bố chồng cô là nhà báo, cô sẽ
nói để ông đi điều tra và làm đơn kêu oan cho ông Bền. Được con dâu “báo
cáo”, tôi đã đi điều tra, và được biết khi công an bắt được tang vật là
bó cây bù-đà để trên mui xe đò, công an hỏi của ai, bản thân ông già
nông dân này cũng không biết bù-đà là hàng cấm và nguy hiểm cho ông đến
thế.
Tôi đã làm một bản tường trình kêu oan cho người nông dân có quê ở
Tân Phú – An Giang này lên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. Trong thư tôi nói
rõ với Chủ tịch nước Lê Đức Anh, tôi là nhà báo, thường trú nhiều năm
tại đồng bằng sông Cửu Long, biết rõ trình độ và tính cách của nông dân
Nam Bộ. Bản án là quá nặng nề với một lão nông sống ở vùng quê xa xôi ít
thông tin. Thư bảo đảm gửi cho Chủ tịch nước, tôi lấy địa chỉ từ cơ
quan thường trú của Đài tiếng nói Việt Nam tại 7 Nguyễn Thị Minh Khai,
Quận 1 TP HCM. Biên lai bưu điện của lá thư bảo đảm đề ngày 25.9.1995
gửi Chủ tịch nước Lê Đức Anh theo địa chỉ số 5 Hoàng Diệu Hà Nội tôi còn
giữ đến bây giờ.
Tôi đã nhờ Đại tá Truật ở cơ quan thường trú báo Quân đội Nhân dân
tại TP HCM để biết địa chỉ của Chủ tịch Lê Đức Anh và còn được anh Truật
qua đường dây bạn bè là sĩ quan cao cấp ở Hà Nội cho biết lá thư của
tôi đã đến tay Chủ tịch nước Lê Đức Anh.
Ít lâu sau, thật vô cùng sung sướng, con dâu tôi ở Mỹ Tho báo lên
rằng bà vợ ông Bền đã đến cảm ơn và gởi biếu tôi một kí đường thốt nốt,
vì chồng bà đã được tha tù. Con dâu tôi còn cho hay, nó đã biếu bà tiền
xe đò để về lại Tân Phú, An Giang.
Kể lại những chuyện cười ra nước mắt này, tôi thành thật nói với bạn
đọc vô cùng yêu rằng, tôi không hề có ý trách cứ, lên án ai về tình
trạng “bệ rạc” của tư pháp nước ta. Chính cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã
dùng từ “bệ rạc” trong một lần nói về tư pháp Việt Nam mà ông yêu cầu
phải cải cách.
Từ phong kiến đến thực dân bán phong kiến, đến chế độ toàn trị
(totalitarisme) thì tư pháp nước ta có những chuyện kể trên là đương
nhiên. Đã có thời kỳ ta giải tán Bộ Tư pháp, không lập trường Đại học
Luật. Nay lập lại Bộ Tư pháp, mở Đại học Luật… nhưng chưa thừa nhận tam
quyền phân lập, Montesquieu chỉ được nói lướt qua ở giáo trình Luật thì
những sự việc trên là đương nhiên sẽ xảy ra. Tuy nhiên, dù thế nào, thời
nào, chúng ta cũng có các cán bộ tư pháp có phẩm chất cao, có dũng khí
bảo vệ lẽ phải, nên nhiều án oan đã được làm lại, mà vụ H122, vụ Nhà máy
xe lửa Gia Lâm là một điển hình.
Vụ Hồ Duy Hải cần phải được điều tra lại với tinh thần Trần Đăng Ninh, đó là trách nhiệm, là lương tâm của tất cả chúng ta.
Làm hồ sơ vụ án sơ sài, xét xử qua loa cho một án tử hình như vậy ở
thời đại khoa học này sao? Cả xã hội đang nhìn vào Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao. Bà Nguyễn Thị Loan đi khiếu kiện
bị xua đuổi mãi sao? “Dân chủ gấp vạn lần” các nền dân chủ khác như bà
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã dõng dạc tuyên bố mà như vậy sao?
Nhân dân đang chờ câu trả lời từ các cơ quan pháp luật.
TP HCM 04/12/2014
L.P.K.