Liên Sơn
Chúng ta không có xu hướng trách móc Trung Quốc về cách họ nhìn về
đất nước chúng ta, họ cho ta là một nước nhỏ và là phiên thuộc (là đứa
con hoang). Giận dữ bằng lòng tự tôn dân tộc, ta nhắc họ bài học về Bạch
Đằng Giang, gò Đống Đa…
Nhưng với tư thế là một người Việt, một bộ phận không nhỏ lại nhìn
Campuchia bằng chính con mắt của Trung Quốc nhìn chúng ta. Một cái gì đó
của kẻ bề trên.
Đã xảy ra nhiều cuộc biểu tình chống Việt Nam ở Phnom Penh. Ảnh: BBC.
Hành trình mang gươm đi mở cõi
Khi thiết chế pháp luật quốc tế chưa được định hình, quan hệ giữa
các quốc gia chỉ dựa trên sự hòa hiếu mỏng manh, thì quá trình mở cõi/
cương vực bằng cách phương thức quân sự, hôn phối, ngoại giao là hoạt
động thường trực của bất cứ quốc gia nào, căn cứ vào thời điểm thịnh,
suy của từng nước.
Vấn đề là, bằng nhiều cách hiểu khác nhau, một quốc gia chưa bao giờ
tự nhận mình là kẻ xâm lược, mà thường được nhắc đến như là một quốc
gia tự vệ nhiều hơn.
Việt Nam cũng không ngoại lệ. Khi nhìn vào lịch sử nước nhà, chúng
ta hay nhìn thấy một Việt Nam trong tư thế bị buộc sống bên cạnh một
láng giềng lớn, với những cuộc xâm lược từ Trung Quốc. Nhưng chúng ta
lại quên rằng, người Việt cũng không kém cạnh trong việc xử sự với
Campuchia như thể một nước lớn.
Những biến cố giữa hai nước bắt đầu từ việc Suryavarman II đem quân
tiến đánh, và bị chết trên đất Việt cho đến cuộc hôn nhân giữa Chey
Chettha II với con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1620), dẫn đến cơ hội
thâm nhập vào vùng đồng bằng sông Cửu Long thông qua việc mở đồn thu
thuế ở Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé).
Vì Hoàng gia Campuchia hay xảy ra các xung đột hoàng tộc dẫn đến
việc liên tục cậy nhờ nước ta nên ta cũng tận dụng luôn cơ hội đó để di
dân, khẩn hoang và tạo ảnh hưởng đến vùng đất Nam bộ. Cụ thể như năm
1674, khi xảy ra biến cố hoàng tộc của triều đình Chân Lạp, khiến Ang
Nan phải chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn, Chúa liền đưa binh đi trợ giúp,
đồng thời chiếm luôn 3 lũy Sài Gòn, Gò Bích và Nam Vang. Đến cuối thế kỷ
17, chúa Nguyễn lập phủ Gia Định và các đơn vị hành chính khác, khiến
cho Chey Chetttha IV đứng dậy chống đối nhưng thất bại… Đặc biệt, giai
đoạn 1836-1840, nhà Nguyễn chính thức bảo hộ Cao Miên và sáp nhập vùng
lãnh thổ Cao Miên (bao gồm cả Oudong và Phnom Penh) vào lãnh thổ Đại
Nam.
Những cách mở rộng cương vực đó, có thể được xem là mưu lược ngoại
giao, quân sự… Nhưng nó không phủ nhận việc chúng ta lấn đất về phía
Nam, vào phần đất có ảnh hưởng của Campuchia. Và hành trình mang gương
đi mở cõi đó cũng đã xóa sổ nhà nước Champa vào năm 1832.
Những cuộc chinh chiến và Nam tiến đó cũng như một bản đồ hành chính
rộng lớn thời Minh Mạng đã dẫn đến tâm lý anh cả đối với hai nước còn
lại (Lào, Campuchia), và là nguồn gốc mâu thuẫn dai dẳng giữa hai dân
tộc Việt Nam – Campuchia.
“Đừng làm đổ trà của chủ ngươi”
Đó là câu một câu nói trong hình biếm họa hay được người Campuchia
sử dụng trên các diễn đàn. Nó mô tả một người lính thời Nguyễn chôn sống
tù bình, chỉ chừa cái đầu nhằm làm giá đỡ cho vạc nước sôi. Khi sức
nóng khiến cho cái đầu lắc lư thì người lính trong biếm họa có nói đến
câu: Please do not move it the tea water might spill.
Việc coi Campuchia như một “đứa em” cần bảo ban trong tư duy của lớp lãnh đạo cho đến người dân cũng gần như thế.
Trong giai đoạn cách mạng chung ba nước Đông Dương dưới sự xâm phạm
lãnh thổ của người Pháp, Hoa Kì thì một nước Campuchia (bên cạnh Lào)
đều được người Việt định hướng về cách mạng, từ khâu tổ chức, cho đến
cán bộ… Cho nên khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập (1930), số
lượng đảng viên người Việt chiếm đa số và quyết định hầu hết cuộc cách
mạng ở Campuchia tiến triển ra sao. Ngay cả, tổ chức Đảng Nhân dân cách
mạng Khmer (nay là Đảng Nhân dân Campuchia) được thành lập vào tháng
09/1951 cũng một tay người Việt (Lê Đức Thọ và Nguyễn Thành Sơn) mà nên.
Do đó, nếu Trung Quốc bê nguyên xi thuyết quân sự và chính trị của
Mao Trạch Đông sang Việt Nam thì Việt Nam cũng không kém khi đem ủy ban
nhân dân, điều lệ, đường lối Việt Minh sang Campuchia.
Vì sơ khai cách mạng ở Campuchia đã có bàn tay người Việt nhúng tay
sâu vào nên càng khiến tâm thế “người Việt lãnh đạo” nhanh chóng nảy
sinh và tồn tại, dẫn đến cái cách hành xử không đúng đắn như “Saloth Sar
và một số đảng viên đã từng du học ở Pháp về được đưa vào sinh hoạt
trong một chi bộ phần lớn là đảng viên Việt Nam và do một người Việt làm
bí thư. Những người Khmer này thường chỉ được các đàn anh Việt Nam giao
những công việc tạp vụ.”
Cách áp đặt tư tưởng “anh cả, lãnh đạo” lên Campuchia sâu đến đỗi
ông Ngô Điền, nguyên là đại sứ kiêm cố vấn cho Bộ Ngoại giao Campuchia
và là “người thầy vĩ đại” của Hunsen cũng cho rằng: Biểu hiện rõ nhất
của tư tưởng nước lớn là việc ta mặc nhiên tự cho mình cái vai trò làm
lại cuộc cách mạng Campuchia, sắp xếp từ đầu đến chân bộ máy Campuchia.
Tất nhiên, phần lớn sự sắp xếp “cán bộ” này không đếm xỉa đến quyền lợi
Campuchia. Thế nên, khi đoàn chuyên gia “tình nguyện” Việt Nam rút đi,
hoàn loạt sự thay đổi cán bộ cao cấp trong Campuchia đã diễn ra, mà hầu
hết là thay thế những con người bất tài – vô dụng – kém đạo đức.
Khi cuộc chiến tranh kết thúc ở cả ba nước, nhất là khi nạn diệt
chủng ở Campuchia cơ bản được khống chế, việc đồn trú 10 năm tại
Campuchia đã tạo điều kiện cho luồng di cư người Việt đến nước bạn (nhất
là thời điểm sau 1993 khi Chính phủ Vương quốc Campuchia được thành
lập), các trường Campuchia dạy chữ và tiếng Việt mở ra, văn hóa Việt tại
Campuchia bắt rễ mạnh hơn (tương tự như văn hóa Trung Quốc bây giờ tại
đất nước này). Và “trong suốt thời kỳ này (10 năm đồn trú), Việt Nam đã
cố du nhập văn hoá Việt vào Campuchia và vấp phải sự phản đối từ người
dân Campuchia”.
Người Việt ngông cuồng
Thái độ “ông chủ” không còn ở vị trí “sắp xếp chu toàn” cách mạng
Campuchia nữa, mà nó chuyển dần sang cái tư thế “ân nhân” và trở về với
những gì xảy ra trong quá khứ. Người Việt, vốn tự cho mình là trung tâm
của Đông Dương, vị thế trong thời kỳ phong kiến, nay lại vừa trợ giúp
Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, chính quyền Hunsen được cho là một
tay người Việt đào tạo đã dẫn thái độ nước lớn, trịch trượng ngay trên
đất bạn từ dân di cư cho đến các “chuyên gia”. Hệ quả là việc thiếu ý
thức nhập gia tùy tục khi có tới 50% người Việt dù đã sinh sống qua
nhiều thế hệ nhưng chưa có giấy tờ chính thức, 10% làm thời vụ không có
giấy tờ cho đến thái độ hành xử không đúng mực, coi thường dân
Campuchia, muốn được hưởng quyền đương nhiên trong nhập tịch, nạn mại
dâm – ăn cắp người Việt cũng gây ra sự nhức nhối về xã hội Campuchia.
Cộng với trước đó, “với việc mất đi lãnh thổ Kampuchea Krom hàng thập kỉ
trước đã từ lâu gây nên không ít xung đột giữa 2 dân tộc.”
Trong khi đó, người Việt trong nước, nhất là giới trẻ “tư tưởng nước
lớn” lại được biểu hiện qua sự tự hào về một vùng đất Nam bộ với việc
khai khẩn hoang và từng bước thuộc về nước Việt, tự hào về việc
Campuchia từng được sáp nhập vào lãnh thổ thời Minh Mạng, tự hào về một
đại quân đánh thắng Khmer Đỏ trong thế chẻ tre.
Xu hướng “tự hào” kiểu đó dẫn đến sự thiếu cầu thị, từ tốn và bình
đẳng trong cách nhìn nhận mối quan hệ hai nước của những người trẻ. Thay
vì coi Campuchia như một người láng giềng, người bạn thì không ít người
Việt lại có xu hướng “lên lớp” nhiều hơn. Người Việt nhìn vào Campuchia
vẫn là chỉ thấy đó là một nước nghèo nàn, lạc hậu và tất nhiên vẫn là
đưa “em út trong nhà”. Nó thể hiện ngay cả trong cách nhìn báo chí, kiểu
như: Tụt hậu so với Campuchia: Còn gì để nói?
Vậy nên không lạ khi nhìn thấy cái cách người Việt đối đáp lại với
những người Khmer Krom về chủ quyền lãnh thổ. Nó bao hàm những yếu tố
chế nhạo địa vị của Campuchia về kinh tế lẫn chính trị, quân sự. Kỳ thị
về màu da ngăm đen và cho đó là mọi rợ, lên giọng “cảnh cáo” về một cuộc
tiến đánh vào Phnom Penh trong vòng vài ngày, vênh vang thái độ với
những lần Campuchia cậy nhờ Việt Nam từ thời sau thời kỳ Đế quốc Khrme
suy yếu cho đến cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ và Khrme Đỏ; kêu gọi
Liên bang Đông Dương với bản đồ hành chính thời Minh Mạng một cách đầy
hào hứng, hay cách nhìn trịch trượng khi thấy sinh viên, chuyên gia, sĩ
quan, chính trị gia Campuchia học tập và được đào tạo bên Việt Nam, kể
cả việc Campuchia hay đưa người qua bệnh viện Việt Nam (chủ yếu là Chợ
Rẫy) chữa trị cũng đem lại cái cười “sảng khoái”… Những kiểu tư duy như
thế này có đầy rẫy trên các các tiêu đề, nội dung báo chí, diễn đàn,
blog có liên quan đến vấn đề Campuchia, nhất là Khmer Krom.
Gần đây nhất, ngay trong ngôn ngữ ngoại giao, Việt Nam cũng biểu
hiện thái độ anh cả không kém, nhất là trong tuyên bố phản đối việc đốt
cờ gần đây (2014): Việc những phần tử cực đoan Khmer Kampuchea Krom tổ
chức biểu tình bất hợp pháp và đốt quốc kỳ của Việt Nam tại Phnom Penh”,
và yêu cầu “Campuchia xét xử nghiêm minh theo pháp luật và có các biện
pháp ngăn chặn hữu hiệu, không để tình trạng trên tái diễn”.
Thực sự, nó chẳng khác biệt gì lắm so với cách Trung Quốc nhìn Việt Nam.
Một câu nói của người Campuchia về mặt lãnh thổ “Cây thốt nốt mọc
đến đâu, đất (xưa) của người Cam trải dài đến đó” được đáp lại bởi câu
“Gươm sẽ chặt sạch những cây thốt nốt đó”, cho thấy tư tưởng đó của
người Việt ngông cuồng và ăn sâu như thế nào.
Ngu ngốc hay khoan dung?
Suy nghĩ, cách nhìn bằng nửa con mắt đối với Campuchia ở lớp lãnh
đạo đến người dân đã biểu hiện những tham vọng chính trị, sự chi phối
đất nước Campuchia trong quá khứ lẫn hiện tại. Nó khiến họ (Campuchia)
cảnh giác và luôn tồn tại ý nghĩ về việc người Việt cướp công ăn việc
làm, sự xâm lược đất đai, văn hóa…
Sự cảnh giác đó dẫn đến kỳ thị, và sự kỳ thị người Việt còn lớn hơn
cả sự kỳ thị của họ đối với Trung Quốc. Người Campuchia coi Việt Nam như
là một anh hàng xóm kênh kiệu, luôn tìm cách áp đặt, là một lò lửa thực
sự mà họ (Campuchia) buộc phải sống chung.
Xã hội Campuchia đã phản ứng lại điều đó bằng nhiều cách khác nhau
khi sự mâu thuẫn giữa người Việt và Campuchia ngày một lớn. Từ việc ủng
hộ người có đường lối chính trị dân tộc cực đoan như Rainsy (thủ lĩnh
đảng CNRP, người từng nhổ 6 cột mốc biên giới vào 25/10/2011), Kem Sokha
(người cho rằng Việt Nam dàn dựng tội ác Khmer Đỏ)…, ủng hộ nhổ cột
biên giới, tìm cách tấn công nhóm vào người Việt, im lặng về vấn đề Biển
Đông, tiến hành điều tra dân số, đốt cờ…
Thế nên, đừng thấy lạ khi gần đây trên tờ Phnom Penh Post có đăng
tải bài viết của một sinh sinh viên Campuchia 22 tuổi (Afril). Trong đó
có nhấn mạnh: Trong số 20 người bạn của tôi, đã có đến 17 người ghét
người Việt Nam.
Tuy nhiên, ngoài sự thừa nhận thực trạng đó, thì rất may mắn là
Afril và nhóm bạn còn đi xa hơn, khi tiến hành xây dựng dự án kết nối
cộng đồng bản địa với người Việt tại Campuchia. Nhằm giúp cho cộng đồng
người Việt tại Campuchia nhanh chóng hòa nhập vào đời sống bản địa, xóa
bỏ sự kỳ thị và phân biệt sắc tộc trong người dân Campuchia.
Cách hành xử của Afril và nhóm bạn của cô cho thấy đó là sự khoan
dung, và là cách ứng xử khôn ngoan, người lớn tạo nên cái nhìn bình
đẳng, bền vững cho cả hai dân tộc.
Và cách hành xử đó cần được người Việt, từ dân đến lãnh đạo học hỏi.
Vì hai quốc gia không chọn được việc vị trí ở gần hay xa nhau, nhưng có thể chọn thái độ sống thân thiện, hay cực đoan.