Chủ Nhật, 10 tháng 2, 2013

Quốc hiệu Việt Nam và cuộc đấu tranh ngoại giao dưới triều Nguyễn


Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Mặc dù triều Nguyễn cũng như các triều đại phong kiến trước đó ở Việt Nam luôn cố gắng khẳng định tính độc lập của mình trong quan hệ bang giao với đại đế quốc phong kiến Trung Quốc láng giềng, song trên thực tế triều Nguyễn vẫn luôn có nhu cầu duy trì về hình thức mối quan hệ với “thiên triều” (Trung Quốc) bằng nhiều phương cách để một mật đảm bảo mối quan hệ hòa hiếu, bang giao hảo thoại giữa 2 nước, mặt khác để hợp thức hóa tính chính thống của vương triều mình — điều mà ngay khi thành lập, triều Nguyễn đã không có được(1). Việc xin đổi quốc hiệu của vị vua đầu triều Nguyễn ngay khi mới lên ngôi là một trong những phương cách ấy.
Về việc xin đổi quốc hiệu trong buổi đầu triều Nguyễn, nhiều bộ sử lúc bấy giờ đã ghi chép lại khá cụ thể, chi tiết. Theo Đai Nam thực lục chính biên: “Vào tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long cử đoàn sứ bộ : Trịnh Hoài Đức làm chánh sứ sang Trung Quốc. Đến tháng 11 năm ấy, lại cử Lê Quang Định cầm đầu sứ bộ sang nhà Thanh xin đặt quốc hiệu mới”(2). Hay trong phần Bang giao của Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cũng đã phản ánh sự kiện này như sau: “Gia Long năm đầu, trong nước đều yên, đường bể đã yên. phái Hộ bộ Thượng thư Trịnh Hoài Đức sung chức Chánh sứ”bộ Binh tham tri Ngô Nhân Tĩnhvà bộ Hình tham tri Hoàng Ngọc Uẩn sung giáp ất phó sứ đem sách ấn của nước Thanh phong cho vua Tây Sơn khi trước và áp giải ba tên giặc biển mạo xưng Đông Hải Vương là Mạc, Quan, Phù sang Quảng Đông giao cho viên tổng đốc tỉnh ấy để tâu xin xử trí. Lại sai riêng sứ bộ sang xin phong và xin lấy quốc hiệu là “Nam Việt” — Sứ bộ này gồm Binh bộ Thượng thư Lê Quang Định sung Chánh sứ, lại sai Thiêm sự Lê Chính Lộ sang Giáp phó sứ. Đông các Đại học sĩ Nguyễn Gia Cát sung At phó sứ”(3).

Như vậy, mốc thời gian về việc các sứ bộ sang Trung Quốc xin phong vương và xin đặt quốc hiệu có thể diễn ra cùng một lúc (như Đại Nam hội điển sự lệ phản ánh) hoặc có thể không diễn ra cùng thời điểm (như Đại Nam thực lục chính biên phản ánh). Song, sự kiện vua Gia Long năm 1802 sai sứ sang Trung Quốc xin đặt quốc hiệu mới Nam Việt là có thật, được phản ánh trong nhiều sử sách của Quốc sử quán đương thời.
Trong quốc thư mà Gia Long gửi cho vua Thanh (lúc đó là Gia Khánh) thông qua đoàn sứ bộ do Lê Quang Định dẫn đầu, Gia Long đã nêu rõ lý do vì sao xin đổi quốc hiệu nước mình là Nam Việt. Quốc thư viết rằng: “Mấy đời trước, chúng tôi mở đất ở Viêm Giao ngày càng rộng gồm nước Việt Thường và Chân Lạp, đặt tên là Nam Việt, truyền nối đã hơn hai trăm năm nay. Nay tôi đã lấy lại cõi Nam, có cả đất Việt, nên lấy lại quốc hiệu cũ để được danh hiệu tốt”(4). Hơn thế nữa, khi lý giải tại sao Gia Long lại xin đổi quốc hiệu từ Đại Việt – một quốc hiệu vốn tồn tại lâu đời ở nước ta, sang quốc hiệu Nam Việt, có không ít nhà nghiên cứu cho rằng: “Có lẽ Gia Long sợ Trung Quốc không bằng lòng vì Trung Quốc xưng Đại Thanh, Việt Nam là Đại Việt, hai nước cùng Đại – ngang hàng nhau1”(5). Vậy lý do thực tế của hành động này là gì? Phải chăng rằng việc xin đổi quốc hiệu này của vua Gia Long hàm ẩn cả 2 mục đích nêu trên, tức là vừa “lấy lại quốc hiệu cũ để được danh hiệu tốt” vừa là vì sợ “hai nước cùng Đại ngang hàng nhau”. Điều này thiết nghĩ cũng phù hợp với quan điểm ngoại giao của triều Nguyễn – một mặt muốn khẳng định tính độc lập của mình trong quan hệ bang giao với Trung Quốc, mặt khác muốn “tận dụng” quan hệ “chư hầu” với “thượng quốc” Trung Hoa về hình thức để cốt khẳng định tính chính thống của triều đại mình.
Song thực tế, việc thương hảo để có quốc hiệu mới diễn ra vô cùng gay cấn. Khi quốc thư của vua Gia Long chuyển lên, hoàng đế Thanh triều đã không đồng ý cho lấy quốc hiệu là Nam Việt. Hoàng đế nhà Thanh cho rằng chữ Nam Việt giống chữ Đông Tây Việt – vốn là tên một vùng đất của nước họ, nên không muốn cho. Thực tế là, cách đó khoảng hai ngàn năm về trước, nhà Tần đã rơi vào tay nhà Hán (206 TCN). Lúc này, một biên thần đang cát cứ ở Tuân Nam Hải (Quảng Đông ngày nay) là Triệu Đà đã đánh chiếm 2 quân Tượng và Quế Lâm lập nên nước Nam Việt. Đến năm 183 TCN, Triệu Đà xưng là Nam Việt Vũ Đế, độc lập với nhà Hán. Tiếp đó, Nam Việt Vũ Đế đã bành trướng xuống phương Nam, thôn tính nước Âu Lạc của An Dương Vương vào năm 179 TCN. Vậy là đến đây, Nam Việt bao gồm các đất Quảng Đông, Quảng Tây và nước Âu Lạc cũ. Từ sự kiện trong quá khứ này, Thanh triều lo ngại rằng nếu công nhận nước ta có quốc hiệu là Nam Việt thì Gia Long sẽ vin vào sự kiện lịch sử ấy để đòi đất Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) theo đúng đất đai nước Nam Việt xưa của Triệu Đà (điều mà vua Quang Trung đã từng làm).
Nắm được tình hình đó, chánh sứ Lê Quang Định lúc này đang ở Quế Lâm đă bàn với Án sát Quảng Tây là Tề Bố Sâm nên đảo lại chữ Nam Việt thành Việt Nam. Trong khi đó, ở trong nước, sau khi biết được tin hoàng đế Thanh triều là Gia Khánh không đồng ý đặt quốc hiệu nước ta là Nam Việt, mà có ý đặt là An Nam, vua Gia Long cũng đã cùng các triều thần bàn bạc. Cuối cùng, vua và các quần thần đi đến thống nhất là đảo chữ Nam Việt thành Việt Nam với hy vọng Gia Khánh sẽ nghe. Sau hai, ba lần gửi thư cho Thanh triều để biện giải không thành, Gia Long dâng biểu lên Gia Khánh, trong biểu có ý dọa nếu không công nhận quốc hiệu này sẽ không thụ phong(6). Trước tình thế ấy, Gia Khánh buộc lòng đồng ý với quốc hiệu Việt Nam. Tờ dụ sau đây của hoàng đế nhà Thanh đã bộc lộ phần nào thái độ nhún nhường của triều đình nước lớn với nước ta – một nước láng giềng nhỏ hơn ngay sát cạnh mà chúng vốn xem là “chư hầu” của mình: “Quốc gia của ông (ám chỉ Gia Long – TG) nguyên trước là đất Việt Thường nay gồm cả nước An Nam nhưng sẵn muốn không quên cái danh hiệu mấy đời còn giữ lại đó, nên mới khẩn khoản xin vẫn giữ tên là Nam Việt, trùng với tên đất ngoài biên, như vậy chưa được thỏa hiệp. Nhưng trẫm nghĩ rằng đã tới cửa giải tấm lòng thành, nên mới cho dùng 2 chữ Việt Nam. Đặt chữ Việt lên trên, tỏ ý theo cương thổ đòi trước, đặt chữ Nam ở dưới biểu dương phiên quốc mới được sắc phong”(7).
Đến ngày 17 tháng 2 năm Gia Long thứ 3 (1804), quốc hiệu Việt Nam được tuyên cáo, chính thức được sử dụng từ đây.
Như vậy là, ngay khi vừa mới lên ngôi, cùng với việc xin phong vương, việc đặt quốc hiệu mới đối với Gia Long có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc khẳng định tính độc lập, chính thống của triều đại mình. Thực tế cho thấy, để đạt được quốc hiệu mới là Việt Nam (1804), vua quan triều Nguyễn thời Gia Long đã trải qua một cuộc đấu tranh ngoại giao không hề dễ dàng mà rất gay cấn, quyết liệt. Cuối cùng, hoàng đế Thanh triều đă buộc phải chấp nhận quốc hiệu mói – Việt Nam của nước ta. Có thể nói, đây một mặt là thắng lợi ngoại giao không nhỏ của triều Nguyễn trong việc khẳng định tính độc lập của mình trong mối bang giao với Thanh triều Trung Quốc, mặt khác cũng là phương cách ngoại giao đầy khôn khéo mà triều Nguyễn đã làm được dưới hình thức “xin” nhà Thanh cho đổi quốc hiệu nhằm tránh “Đại Nam ngang hàng với Đại Thanh” để cốt giữ mối quan hệ hòa hiếu, bang giao hảo thoại vốn có giữa 2 nước thời bấy giờ.
CHÚ THÍCH:
(1) Triều Nguyễn được thành lập trên cơ sở tiêu diệt nhà Tây Sơn – một vương triều vốn từng chiếm được cảm tình của nhân dân. Vương triều Tây Sơn đứng đầu là Quang Trung – người anh hùng dân tộc có công lao to lớn trong sự nghiệp thống nhất và bảo vệ đất nước. Trong hoàn cảnh ra đời như vậy, vương triều Nguyễn bị rơi vào vị thế bất lợi về phương diện tâm lý, không được nhiều thiện cảm của nhân dân ngay từ ban đầu cũng là điều dễ hiểu. Hơn thế, vương triều Nguyễn đã dựa vào thế lực bên ngoài để thành lập và củng cố quyền lực của mình ở trong nước thì càng dễ khiến nhân dân bất bình. Do đó, không như các triều đại Lê, Tây Sơn trước đó, triều Nguyễn khi vừa mới thành lập đã không khẳng định được uy tín, quyền lực của mình với nhân dân (đặc biệt là đối với nhân dân Bắc Hà đang một lòng hướng về nhà Lê) cũng như tính chính thống của mình bằng cuộc chiến đấu chống ngoại xâm.
(2) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, T. XVII, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1966, tr.10.
(3) Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, phần Chính biên, tr.306.
(4) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, T. III, Nxb Sử học, Hà Nội, 1963, tr.91.
(5) Theo Nguyễn Lương Bích, Lịch sử ngoại giao Việt Nam các thời trước, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1996, tr.214.
(6) Xem Nguyễn Thế Long, Bang giao Đại Việt triều Nguyễn, Nxb Văn hóa Thông tin, 2005, tr.35 – 37.
(7) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, T. III, Nxb Sử học, Hà Nội, 1963, tr.157-158.

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"