Hoàng Xuân Phú
Có lẽ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) quan niệm rằng
- quy định về quyền lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội, và
- quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý
tại Điều 4 và Điều 17–18 của Hiến pháp 1992 là hai tử huyệt của chế độ.
Vì vậy, dư luận càng muốn hủy bỏ hoặc sửa đổi hai quy định đó, thì họ
càng kiên quyết bảo lưu. Chúng nằm trong định hướng bất di, bất dịch của
lãnh đạo đảng, và được tái thể hiện tại Điều 4 và Điều 57 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.
Tử huyệt độc quyền lãnh đạo
Trong thế giới văn minh, quyền lãnh đạo đất nước của một đảng chính trị chỉ có thể giành được thông qua tranh đấu và bầu cử dân chủ.
Kể cả khi đang cầm quyền, đảng vẫn phải phấn đấu liên tục, để thuyết
phục Nhân dân tin tưởng và tiếp tục trao cho quyền lãnh đạo.
Không thể lấy công lao trong một giai đoạn quá khứ để bù lại cho
hiện tại yếu kém, với bao sai lầm, tội lỗi, và áp đặt cho cả tương lai
vô định. Nếu cứ từng có công là được cầm quyền vĩnh viễn, thì ĐCSVN
phải trả lại chính quyền cho triều đình nhà Nguyễn, và triều đình nhà
Nguyễn lại phải trả lại chính quyền cho các triều đình trước đó. Thế là
khởi động cho một quá trình truy hồi dằng dặc, mà không thể tìm được
điểm kết thúc. Hơn nữa, thời gian qua đi, giờ đây nắm quyền lực bao
trùm đất nước lại là những người vốn chỉ đi theo hoặc ăn theo cách mạng,
hay từng được cách mạng o bế và cưu mang mà thôi. Nếu họ từng có
công, thì chưa chắc bù nổi những lỗi lầm đã gây ra. Phần lớn những người
có công đáng kể, những công thần của chế độ, đã qua đời, hoặc nếu còn
sống thì đã về hưu, và có lẽ đang đau lòng vì phải chứng kiến sự nghiệp
cách mạng của thế hệ mình bị phản bội.
Không thể coi quyền lãnh đạo đất nước của bất kỳ đảng phái nào là đương nhiên, và vì vậy không thể ghi điều đó vào Hiến pháp.
Vả lại, nếu quyền đó đã là đương nhiên, được mọi người mặc nhiên thừa
nhận, thì cũng chẳng cần ghi vào Hiến pháp làm gì, để khỏi gây phản cảm
một cách không cần thiết. Nếu một điều không phải là đương nhiên và
không được tất cả mọi người thừa nhận, mà vẫn bất chấp, áp đặt bằng được
trong Hiến pháp, thì chỉ riêng việc làm đó đã khắc họa xong tính dân
chủ và tính hợp pháp của đảng và chế độ.
Nếu ĐCSVN được đa số Nhân dân tin cậy và ủng hộ, thì bất cứ cuộc tổng
tuyển cử dân chủ nào cũng đưa lại một kết quả tất yếu, đó là trao cho
đảng quyền lãnh đạo đất nước. Cho nên, khi khẳng định rằng “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”, thì có nghĩa đã mặc
nhiên thừa nhận thực trạng tệ hại của đảng, khiến đa số Nhân dân không
thể đồng tình ủng hộ và chắc chắn sẽ không bầu cho đảng. Nếu nghĩ là
mình không còn xứng đáng, không còn được đa số Nhân dân tín nhiệm, mà
vẫn dùng Hiến pháp để áp đặt bằng được vai trò lãnh đạo, thì có còn tử
tế và vì Dân nữa hay không?
Con người muốn tồn tại và phát triển thì không thể khước từ thử
thách, không thể lẩn tránh đối đầu. Ngược lại, phải chấp nhận thử thách,
vượt qua thử thách mà vươn lên. Nếu một đứa trẻ luôn được o bế trong
căn nhà vừa được vô trùng, vừa được điều hòa nhiệt độ một cách tuyệt
đối, thì sẽ dễ bị đổ bệnh khi ra khỏi cửa. Nếu con cái được bố mẹ quá
bao cấp, kèm cặp từng li từng tí, thì sẽ dễ ngã gục khi bước vào cuộc
sống tự lập trong xã hội. Để tránh bệnh tật, hàng tỷ người trên thế giới
chấp nhận tiêm vắc-xin, nhằm phát triển khả năng miễn dịch, tức là chủ
động đưa cơ thể mình vào trạng thái thử thách. Muốn khỏe, con người
không thể ỳ ra, mà phải thường xuyên khổ luyện dưới hình thức thể dục.
Không có cạnh tranh, không có thi đua (thực chất), thì con người không
thể khá lên được.
Không chỉ từng cá thể, mà cả quần thể, với tư cách tổ chức, đảng
phái, hay cả xã hội, cũng phải biết đương đầu với thử thách. Vì biết tận
dụng cuộc cạnh tranh giữa hai hệ thống chính trị trên thế giới để tự
hoàn thiện, để giành phần thắng trong cuộc chiến tranh lạnh, nên các
nước tư bản hàng đầu đã phát triển vượt bậc, không chỉ về kinh tế, khoa
học và công nghệ, mà cả về dân chủ và phúc lợi xã hội, cũng như về quyền
con người.
Ngược lại, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã xử lý sai tình
huống và quan hệ địch ta. Nhìn đâu cũng thấy địch, kể cả trong Dân, nên
nhiều khi đối xử với Dân cũng giống như với địch, khiến dần dần mất Dân.
Ỷ thế vào cường quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đầu têu trong việc cấm
đảng phái khác hoạt động, để rồi sau này ĐCSVN cũng nối gót sai lầm. Các
nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa chấp nhận đa đảng, nhưng cũng chỉ
là hình thức. Dân chủ xã hội và quyền con người bị bóp nghẹt, khiến tinh
thần và trí tuệ cũng bị lụi tàn. Tưởng rằng như vậy thì các đảng cộng
sản sẽ rảnh tay, có thể tập trung lực lượng chiến đấu với kẻ thù chính ở
hệ thống bên kia, nhưng kết quả thì ngược lại. Kinh tế suy sụp, lòng
Dân ly tán, khiến hệ thống chính trị được dày công xây dựng suốt hơn nửa
thế kỷ bị phá từ trong phá ra, đổ rụp trong chốc lát, làm cho đối thủ
cũng bị bất ngờ đến ngỡ ngàng.
Họa đôi khi cũng là phúc, nếu biết rút ra bài học hợp lý từ thảm họa. Nếu quay ra chấp nhận cạnh tranh một cách dân chủ trong xã hội đa đảng, đa nguyên, ĐCSVN sẽ buộc phải lựa chọn những người lãnh đạo thuộc loại ưu tú nhất, và chắc chắn sẽ chọn
được hàng ngũ lãnh đạo tốt hơn gấp bội lần so với đội hình đương nhiệm,
kể cả tài lẫn đức. Mọi phần tử thoái hóa, tham nhũng sẽ bị vạch trần và
bị đào thải. Trong ba triệu đảng viên không thiếu người tài,
người tốt. Vấn đề là phải dùng dân chủ để giải phóng tiềm năng bị độc
quyền giam hãm bấy lâu. Không chỉ dựa vào nội lực, dân chủ xã hội còn
cho đảng thêm cả sức mạnh từ ngoài đảng. Nếu đảng cầm quyền không tự
nhận ra tồn tại yếu kém của mình, thì các đảng đối lập cũng sẽ vạch ra
cho. Chẳng cần đến những nghị quyết vô dụng, những màn kịch phê bình –
tự phê bình giả dối và lố bịch, thì ĐCSVN vẫn có thể vươn lên, tốt hơn
hẳn hiện tại, để được Nhân dân tin tưởng mà trao quyền lãnh đạo.
Tiếc rằng, lãnh đạo của ĐCSVN lại phản ứng như gã tài xế ù lì, chỉ
biết nghiến răng tăng ga, khi cỗ xe đang lao xuống đầm lầy. Một mặt,
đảng càng suy sụp thì họ càng bóp nghẹt dân chủ trong đảng, dân chủ
trong xã hội, và càng hạn chế quyền con người, nhằm duy trì quyền lực
bằng bạo lực. Mặt khác, giới cầm quyền tranh thủ tham nhũng, đua nhau vơ
vét, tước đoạt cả tài sản của Dân. Chính họ, chứ không phải thế lực thù
địch nào khác, đã và đang phá nát ĐCSVN. Trạng thái độc đảng đã
triệt tiêu sức chiến đấu và bản năng sống lành mạnh của đảng. Buông thả
trong thế độc quyền, ĐCSVN đang tự tha hóa, tự hủy diệt, như cỗ xe không
phanh, lao xuống dốc, hướng thẳng tới vực thẳm.
Có ý kiến đề xuất tăng cường dân chủ trong nội bộ đảng để bù lại, để
tự gột rửa và điều trị căn bệnh ung thư đã bước sang giai đoạn di căn.
Nhưng không thể tồn tại dân chủ trong một đảng độc quyền. Chỉ có
dân chủ ngoài xã hội mới thúc đẩy dân chủ trong đảng, chứ không phải
ngược lại.
Khước từ dân chủ xã hội, trong đó có thể chế đa đảng, ĐCSVN
không chỉ gây thêm thù oán với Dân, mà còn tự tước bỏ khả năng đề kháng
và hy vọng chữa trị căn bệnh nan y của chính mình. Sự bảo thủ
kiêu ngạo đã bịt mắt giới lãnh đạo, khiến họ cố tình làm ngơ trước thực
tế là: Đảng Nhân dân Camphuchia, một đảng từng được ĐCSVN nâng đỡ và
phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn gấp bội, vẫn có thể giữ được quyền
lãnh đạo đất nước thông qua bầu cử, mà không cần phải bức hại đa
nguyên, không cần phải cưỡng bức Hiến pháp.
Cần phải nói thêm rằng: Quy định ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội không có nghĩa nó là lực lượng lãnh đạo duy nhất,
càng không phải là đảng duy nhất được phép tồn tại. Do đó, kể cả khi duy trì Điều 4 củaHiến pháp 1992, thì việc ngăn cấm các đảng phái chính trị khác thành lập và hoạt động là vi phạm quyền tự do hội họp, lập hội, được quy định tại Điều 69, Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tử huyệt sở hữu toàn dân về đất đai
Hiến pháp 1946 không đề cập đến đất đai. Hiến pháp 1960 chỉ quy định đất hoang thuộc sở hữu của toàn dân. NhưngHiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 thì quy định (toàn bộ) đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
“Sở hữu toàn dân” lại có nghĩa là chẳng người dân nào có quyền sở hữu. Trớ trêu thay, nhân danh “sở hữu toàn dân” để tước đi quyền sở hữu của toàn dân.
Những mảnh đất vốn dĩ có chủ, được khai hoang, được trao đổi, mua bán,
hay được thừa kế hợp pháp từ bao đời, nay bỗng nhiên trở thành vô chủ.
Bộ máy cầm quyền, vốn dĩ chẳng có gì, mà nay lại chiếm được tất cả,
trong đó có quyền quyết định về đất đai trong cả nước.
Để vận động hàng chục triệu nông dân giúp đỡ cướp chính quyền, ĐCSVN đã giương khẩu hiệu “dân cày có ruộng”. Chữ“có ruộng” ở đây đương nhiên là “sở hữu ruộng đất”, chứ không phải chỉ là “có quyền sử dụng đất”.
Sau khi giành được chính quyền ở miền Bắc, đảng đã lấy ruộng của người
giàu chia cho người nghèo, rồi tiếp đó lại vận động nông dân góp ruộng
để làm ăn tập thể, trong mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Khi đã giành
được chính quyền trong cả nước, lãnh đạo ĐCSVN quyết định quốc hữu hóa
đất đai, dưới hình thức “sở hữu toàn dân”. Nếu biết trước kết cục sẽ mất đất như vậy, liệu hàng triệu người có còn theo đảng, giúp đảng giành chính quyền nữa hay không?
Khi chính quyền tử tế, có khả năng sử dụng đất đai một cách vô tư,
hợp lý và công bằng, thì sở hữu toàn dân về đất đai có thể tạo ra một
sức mạnh cộng hưởng để xây dựng đất nước. Và người dân có thể tự an ủi
rằng mình hy sinh bớt lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích cộng đồng,
trong đó có cả bản thân và gia đình mình. Nhưng khi chính quyền tham nhũng thì sở hữu toàn dân về đất đai gây ra đại họa, không chỉ làm khổ muôn dân, mà phá nát cả chính quyền.Chỉ
mất mấy giây hạ bút, kẻ mang danh “công bộc” đã có thể vơ về cả đống
tiền của, mà một người lao động chân chính lăn lộn cả đời cũng không
kiếm nổi. Chỉ với mấy chữ ký loằng ngoằng của mấy kẻ có chức quyền, hàng
trăm, hàng ngàn người dân đã bị tước mất đất đai, nơi họ đang làm ăn,
sinh sống, trở thành dân oan, lang thang khiếu kiện khắp nơi. Càng
duy trì sở hữu toàn dân về đất đai, thì càng gia tăng oán hận của Dân,
càng sinh sôi tham nhũng trong tầng lớp lãnh đạo, và càng đẩy nhanh quá
trình tự hủy diệt của chế độ.
Bộ máy cầm quyền đầy ắp những kẻ tha hóa, cấu kết với bao kẻ vốn đã
lưu manh từ trước khi chen chân vào chốn quan trường. Cái thứ “sở hữu toàn dân”
ngon lành và dễ ăn như thế, làm sao kìm nổi lòng tham? Có thể những
người đã no nê cũng tán thành tư nhân hóa đất đai, vừa giũ bỏ được cái
nguồn kiếm chác béo bở đã trở thành “của nợ”, vừa có được quyền sở hữu
vĩnh viễn cho số đất đai đã thu gom bấy lâu. Nhưng những vị còn chưa
thấy đủ no và những kẻ kế cận đang mong chờ đến lượt mình được vơ vét
thì lại không dễ buông tha.
Muốn nuốt thì hóc, mà muốn nhả ra cũng không hề dễ. Tư nhân hóa đất
đai thế nào? Trao quyền sở hữu cho ai và trao bao nhiêu? Khi còn là sở
hữu toàn dân thì chủ đất cũ đành chịu lặng thinh. Nhưng khi mảnh đất vốn
của mình lại được giao cho một người lạ hoắc sở hữu, thì chủ cũ đâu dễ
chịu ngồi im. Đất đai vốn dĩ nằm trong trạng thái phân bổ tương đối ổn
định và hợp lý về mặt lịch sử, mấy chục năm qua bị đẩy vào tình trạng
hỗn loạn. Nếu bây giờ muốn sửa chữa sai lầm, lập lại trật tự, thì lại
quá khó. Hoàn cảnh thực tại giống như gã phàm ăn nuốt phải lưỡi câu:
Nuốt tiếp thì vướng cước và có thể bị chọc thủng dạ dày, mà lôi ra thì
móc vào cổ họng.
Thách thức vượt quá năng lực tư duy và hành động của những đầu óc u
mê, trí tuệ giáo điều. Biết làm gì ngoài việc câu giờ, dồn hậu họa lên
đầu những người kế nhiệm?
Quả là rất khó để thoát ra khỏi tình trạng sa lầy về sở hữu đất đai. Sai lầm càng lớn thì khắc phục càng khó. Songlãnh đạo ĐCSVN cần xác định rằng họ có trách nhiệm giải thoát Dân tộc ra khỏi bãi lầy, mà chính đảng đã đẩy Dân tộc xuống.
Nếu biết huy động trí tuệ của Dân tộc và tạo được sự đồng thuận của
Nhân dân, thì khó mấy cũng làm được. Cách làm như thế nào không phải là
chủ đề trao đổi của bài này.
* * *
Quy định trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN đối
với Nhà nước và xã hội tưởng để đảng trường tồn, nhưng lại là điều khoản
khai tử của ĐCSVN, khai tử khỏi lòng Dân và khai tử khỏi cuộc sống
chính trị.
Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý như cỗ
máy khổng lồ, từng phút từng giờ đùn ra hàng đống thuốc nổ, nén chặt vào
lòng Dân. Nó giống loại ma túy cực độc, có thể thỏa mãn cơn nghiện tham
lam vô biên của giới cầm quyền, nhưng cũng tăng tốc quá trình tự hủy
diệt của ĐCSVN và chế độ do đảng dựng nên.
Vì vậy, nếu muốn bảo vệ ĐCSVN và chế độ này, thì cần phải nhanh chóng loại bỏ hai quy định đó ra khỏi Hiến pháp.
Ngược lại, nếu muốn gạt bỏ sự lãnh đạo của ĐCSVN, thì có thể sẽ sớm
được toại nguyện, nếu tiếp tục duy trì hai quy định ấy trong Hiến pháp,
bởi lẽ không có cách phá nào nhanh hơn là tự phá.
H.X.P.
Hà Nội, 11/01/2013
Cùng tác giả: