Thăng yên hạ mã bách thiên nan
Quốc thế như kim thực vị an
Nùng mạt, đạm trang, nhân tính cựu
Nguyên nhung bát thập bất tri nhàn
Quốc thế như kim thực vị an
Nùng mạt, đạm trang, nhân tính cựu
Nguyên nhung bát thập bất tri nhàn
(Lên yên xuống ngựa khó muôn vàn
Thế nước hôm nay thực chửa an
Đậm, nhạt, mau, thưa người nếp cũ
Tám mươi lão tướng chẳng mong nhàn)
Thế nước hôm nay thực chửa an
Đậm, nhạt, mau, thưa người nếp cũ
Tám mươi lão tướng chẳng mong nhàn)
Tôi mở đầu vài cảm nghĩ về cuốn sách “Quyền Bính” (Tập 2 – Bên Thắng
Cuộc, Huy Đức) bằng bài thơ của Tào Mạt: “Gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đi bộ ứng khẩu làm ngay”. Năm 1991 ấy, tướng Giáp tròn 80 tuổi. Sau Đại
hội VII ĐCSVN, ông Võ Nguyên Giáp – một đại công thần của chế độ, chính
thức rời khỏi chính trường. Rồi những cuốn hồi ký nổi tiếng, rất có giá
trị sử học của ông liên tiếp ra đời: Chiến đấu trong vòng vây, Đường tới
Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Tổng hành dinh trong mùa
xuân toàn thắng…Nhưng, trong những cuốn hồi ký ấy, ông chỉ nói rất ít
về bản thân mình.
Thì đây, “Quyền Bính” có một chương riêng về tướng Giáp. Tác giả đã
cho chúng ta biết một câu nói rợn người đầy kinh hãi của Lê Đức Thọ qua
lời kể của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể Lê Duẩn: “Có lần ông Thọ nói ông
còn để cái đầu ông Giáp trên cổ là đã may lắm”. Than ôi! Một ông Đại
tướng Tổng tư lệnh, người Anh Cả đầu tiên và duy nhất của quân đội, đã
làm nên biết bao công tích, được thế giới ca ngợi, đã phạm “tội” gì mà
Lê Đức Thọ dám đưa ra một lời kết án tai ác đến cỡ đó?
Trong Quân ủy Trung ương, ông Thọ chỉ là Phó Bí thư, cấp dưới của ông
Giáp. Ông ta dĩ nhiên không phải là nhà quân sự chuyên nghiệp. Chiến
lược, chiến thuật quân sự, điều quân đánh đông dẹp bắc là nhờ tài năng
của các tướng lĩnh. Thế mà trong chiến dịch Quảng Trị (không chỉ chiến
dịch Quảng Trị), “Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường xuyên
điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa
để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc!”.
Lê Đức Thọ thường gọi ông Trần Bạch Đằng, một người cộng sản cấp tiến
cực kỳ tài hoa, tiếng tăm lẫy lừng là “thằng trời đánh” – điều cay đắng
là ông Đằng không bao giờ được vào Trung ương, dù có ông Lê Duẩn đỡ
đầu. Chính Giáo sư Hồ Ngọc Đại cũng đã một phen hoảng hốt sau khi bố vợ
mất, ông hỏi Đoàn Duy Thành, “Ba cháu mất rồi, liệu họ… có giết gia đình
nhà cháu không?” (Làm người là khó – Đoàn Duy Thành). Quả thật, quyền
bính – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện đại.
Người làm chính trị, nắm quyền bính, điều quan trọng nhất là để lại
tiếng thơm trong sử sách. Tôi xin lưu ý, một Giáo sư người Mỹ sau khi
nghiên cứu về Mao Trạch Đông đã kết luận, cuộc đời ông ta làm được 31
việc nhưng có tới 20 việc liên quan đến việc hủy hoại tinh thần và đạo
đức con người!
Quan sát sự vận hành quyền bính tại VN cho thấy, dường như không ít
nhà lãnh đạo cao cấp ghen tỵ với tài năng và vinh quang của tướng Giáp,
họ muốn hạ bệ uy tín cực lớn của ông trong đảng và dân chúng. Đến như
ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, thay vì bác bỏ bản báo cáo sai sự thật
của Nguyễn Đức Tâm về vụ Sáu Sứ, ông lại chỉ đạo điều tra hai ông Võ
Nguyên Giáp và Trần Văn Trà; thay vì minh oan cho ông Giáp và ông Trà
sau khi biết kết quả điều tra, ông và Bộ Chính trị lại im lặng “đáng
sợ”.
Có nhà nghiên cứu cho rằng, ông Võ Nguyên Giáp là điển hình của một
tài năng không được phát huy hết trong một xã hội mà sự vận hành quyền
lực tập trung vào tay một số người, lại thiếu công cụ để khống chế, kiểm
soát quyền lực ấy. Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến tham nhũng tuyệt đối
và quyền lực tuyệt đối cũng sẽ dẫn đến tha hóa tuyệt đối.
Đúng như tác giả Huy Đức nhận xét, ông “mưu lược và quyết liệt không
chỉ trong những cuộc chiến quy ước như Điện Biên Phủ, năm 1946, khi Hồ
Chí Minh đi Pháp nhân Hội nghị Fontainebleau, ở Hà Nội, Tướng Giáp đã
cùng với Trường Chinh thanh trừng đối lập gần như triệt để. Nhưng trước
những đối thủ chính trị nhân danh Đảng, Tướng Giáp trở nên cam chịu và
thụ động. Có lẽ lòng trung thành với tổ chức và ý thức tuân thủ kỷ luật
đã rút đi thanh gươm trận của ông”.
Thêm một điểm cần lưu ý, đó là ông Võ Nguyên Giáp đã xử lý mẫu thuẫn
“địch – ta” khác hẳn việc xử lý mẫu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Xử lý
mẫu thuẫn “địch – ta” là xử lý mâu thuẫn đối kháng, một mất một còn –
chiến tranh là như thế. Song, xử lý mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thì
phải khác. Ông Trần Bạch Đằng từng nói: “Đành rằng làm chính trị là phải
thủ đoạn. Nhưng làm chính trị thì cũng phải có tình nghĩa, bạn bè chứ”.
Chỉ có điều, đối thủ chính trị của các ông không nghĩ và làm như vậy.
Quyền bính (quyền hành) và quyền lực đều có điểm chung là quyền định
đoạt mọi công việc và sức mạnh để đảm bảo thực hiện quyền ấy. Quyền lực
đồng nghĩa với sức mạnh và như vậy, kẻ mạnh nắm quyền lực sẽ thống trị
và chi phối kẻ yếu. “Quyền Bính” đã làm nổi bật tư duy và quyền lực của
nhiều nhà lãnh đạo cao cấp VN, của tập thể, của cả chế độ, trong mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, con người và tư tưởng; sự vận hành và chi
phối của quyền lực, kết quả của việc thực thi quyền lực. Có thể nói,
“Quyền Bính” đã cho chúng ta thấy sự vận hành quyền lực ảnh hưởng như
thế nào đến tương lai đất nước và dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử
VN hiện đại.
Anh Doan Tran, một người bạn thân của tôi ở Hoa Kỳ, rất am hiểu văn
hóa và lịch sử VN – người đã gửi tặng tôi ấn bản điện tử “Quyền Bính”
ngay sau khi phát hành, bằng một sự liên tưởng và tinh tế hiếm có, nhận
xét: “Hãy lưu ý hình bìa cuốn sách với chiếc xe hơi Lada, dây điện, đèn
tín hiệu giao thông rồi đọc chi tiết này trong cuốn sách để thấy sự thú
vị:
“Khi nhậm chức, Nguyễn Văn Linh vẫn sử dụng một chiếc xe hơi hiệu
Lada của Liên Xô đã cũ thay vì tiêu chuẩn của Tổng bí thư phải là “Volga
đen” hoặc Toyota. Theo ông Bùi Văn Giao, trợ lý của Nguyễn Văn Linh:
“Ông không biết rằng, để Lada có thể chở Tổng bí thư, Văn phòng phải gắn
thêm máy lạnh. Vì tải thêm máy lạnh mà tuổi thọ của những chiếc Lada
này bị giảm đi rất nhanh, cứ sau một hai năm là phá luôn giàn máy. Một
lần ông Linh đi công tác về tỉnh, chiếc máy lạnh tự chế phát nổ. May mà
khi đó, ông Linh đang ngồi trong phòng họp còn chiếc xe thì đậu ngoài
sân”.
Phải chăng, đưa “cái lạnh” của tư bản vào “cái nóng” của xã hội chủ
nghĩa, nó sẽ “trung hòa” và “bộ máy” sẽ vận hành tốt hơn? Không phải!
Trên thực tế, làm như vậy “bộ máy” bị hỏng nhanh hơn và tệ hơn nữa – nó
phát “nổ” rất nguy hiểm. Không thể “lắp ghép” một cách tùy tiện, bởi nó
không thể tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh, dù gắn cho nó cái “đầu” hay
cái “đuôi” gì đi nữa (“đuôi” định hướng XHCN chăng – một gợi ý!). Tri
thức nhân loại đã kết tinh hàng ngàn năm, sao người ta không tiến cùng
văn minh thời đại, mà lại “sáng tạo” ra con đường đi mới chưa có tiền lệ
trong lịch sử và than ôi, sự “sáng tạo” đó đã cho kết quả nhãn tiền
rồi!
Cũng như “Giải Phóng”, “Quyền Bính” – dù khách quan đến đâu, chúng ta
vẫn nhận thấy tác giả tiếp tục dành cho ông Võ Văn Kiệt nhiều thiện
cảm. Anh Doan Tran cho rằng tác giả dường như “thần tượng hóa” ông Kiệt –
tôi nghĩ nhận xét đó hơi quá. Dù sao, cách sử dụng quyền lực và việc
nắm quyền bính của ông Kiệt được nhiều người ủng hộ, dù ông Tố Hữu bóng
gió: “Sáu Dân muốn làm vua Saigon”.
Ông Võ Văn Kiệt có cách giải quyết mâu thuẫn về chính trị khá hay. Đã
một lần ông nói với người lãnh đạo văn nghệ: “Ở Sài Gòn nếu đòi hỏi
người xứng đáng theo tiêu chuẩn chính trị để đóng Hai Bà Trưng thì chỉ
có Bà Định; đóng Lênin thì chỉ có Bác Tôn thôi. Các anh cứ mời các vị ấy
đóng xem thử có ai đi coi không?”. Lại một lần khác, khi họp Bộ Chính
trị để thông qua việc chọn BHP làm đối tác thăm dò dầu ở mỏ Đại Hùng,
Nguyễn Hà Phan phản đối: “Đồng bào miền Nam chắc chắn không một ai đồng
tình chọn Úc làm đối tác khai thác dầu khí vì bọn Úc đã từng đưa quân
vào tàn sát đồng bào ta”. Ông Võ Văn Kiệt liền đứng dậy: “Nếu nói như
Sáu Phan thì tôi đề nghị Bộ Chính trị nên chọn Lào đầu tư. Mỹ là kẻ thù
mới đánh ta; Pháp đô hộ 80 năm; Nhật khiến cho 2 triệu người chết đói;
Úc, Hàn theo Mỹ mang quân sang… Không có nước nào có công nghệ tốt lại
không có dính líu vào một ‘tội ác’ nào đó”.
Đọc “Quyền Bính” và “Giải Phóng”, chúng ta nhận thấy có một điểm nổi
bật nữa là tính tự trọng của nhiều nhà lãnh đạo cao cấp thời ấy. Họ dám
làm và dám chịu trách nhiệm. Các ông Trường Chinh từ chức Tổng bí thư,
Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, Hồ Viết Thắng bị kỷ luật do sai lầm
của cải cách ruộng đất. Ông Linh cũng đã phải một lần ra khỏi Bộ Chính
trị. Ông Kiệt xé rào, đổi mới. Ông Trần Phương quyết định từ chức sau vụ
“giá – lương – tiền” cho dù ông không phải là người chịu trách nhiệm
chính. Ông Lê Duẩn thấy rằng, sau vụ “giá – lương – tiền”, Tố Hữu không
còn khả năng làm Tổng bí thư, dù đã được chọn vào hàng ngũ kế cận. Và
thực tế, tại Đại hội VI, Tố Hữu thậm chí không được bầu vào Trung ương.
Phải thừa nhận, thời ấy đa số các nhà lãnh đạo cao cấp không được đào
tạo bài bản, song họ rất có trình độ, chỉ bằng tự học. Còn gần đây và
hiện nay thì sao? Không ít người gần như “mất trí” vì ham mê quyền bính:
dấu bệnh để mong làm Chủ tịch nước, dấu bệnh để làm Thường trực Ban bí
thư, sợ ra khỏi Bộ Chính trị thì chết không nhắm được mắt…Rồi một Tổng
bí thư hai nhiệm kỳ mà Phó Ban Tổ chức Trung ương nhận xét trình độ chỉ
tầm cỡ cán bộ cấp huyện, một Thủ tướng mà chỉ mới nghe tên thôi, người
dân đã lắc đầu ngán ngẩm. Liệu đất nước có thể phát triển sánh vai với
thế giới nếu vấn đề quyền bính được vận hành như thế?
Rốt cuộc, ai là người có quyền lực nhất? Nhà tương lai học người Mỹ,
Alvin Toffler, trong tác phẩm Thăng trầm quyền lực, đã phân tích rất sâu
sắc về quyền lực. Bạo lực, của cải và tri thức là ba đỉnh của một tam
giác quyền lực. Bạo lực chủ yếu dùng để trừng phạt, làm người ta khiếp
sợ nhưng là nguồn quyền lực ít linh hoạt nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc (“Giải
Phóng” và “Quyền Bính”), chúng ta đã rõ nhân vật nào, thời nào ưa sử
dụng nguồn quyền lực bạo lực nhất.
Của cải được dùng vừa trừng phạt lại vừa ban thưởng và có thể được
chuyển thành nhiều nguồn khác, là một công cụ quyền lực rất uyển chuyển.
Đọc Bên Thắng Cuộc cũng như quan sát tình hình hiện nay, chúng ta đã rõ
nhân vật nào, thời nào ưa sử dụng và sử dụng hết sức “thành công” nguồn
quyền lực của cải nhất.
Tuy vậy, tri thức mới là nguồn quyền lực cơ bản và linh hoạt nhất, vì
một người có tri thức có thể tránh được những thử thách đòi hỏi sử dụng
bạo lực hay của cải và có thể thuyết phục được những người khác để hoàn
tất những ý định mình mong ước. Tri thức tạo ra quyền lực có phẩm chất
cao nhất. Đọc Bên Thắng Cuộc, chúng ta đã rõ nhân vật nào thường sử dụng
nguồn quyền lực tri thức nhất. Nếu nhân vật ấy sử dụng nguồn quyền lực
bạo lực, chắc chắn lịch sử VN hiện đại đã khác rồi.
Và một khi quyền lực được tạo ra từ quyền mưu hay từ những yếu tố
khác thay vì tri thức thì quyền lực đó không thể bền vững, khiến cho
những người nắm quyền lực kiểu đó trở nên đáng sợ – ngay cả với bạn bè,
đồng chí, người thân của họ. Lịch sử hiện đại VN không thiếu thí dụ minh
họa điều này.
“Quyền Bính” – vấn đề muôn thuở trong lịch sử VN hiện đại. Một xã hội
chỉ có thể phát triển tốt khi “quyền bính” được cân bằng, không bị lũng
đoạn hoặc tập trung vào trong tay một số người – cũng tức là phải tạo
ra một tam giác đều quyền lực trong đó ba đỉnh của nó chính là bạo lực,
của cải và tri thức.
Để kết thúc, tôi xin nhìn đôi nét tổng quát về Bên Thắng Cuộc. Điểm
mạnh của “Quyền Bính” cũng như “Giải Phóng” là nhiều tư liệu, vừa trực
tiếp, vừa gián tiếp, được thể hiện bởi một nhà báo lão luyện – công
trình mang phong cách báo chí. Tuy nhiên, tác giả Bên Thắng Cuộc tái
hiện một giai đoạn lịch sử VN hiện đại nhưng tư liệu gốc chiếm tỷ trọng
không nhiều lắm, chỉ có một số bức điện, một số báo cáo, một số biên
bản, một số nghị quyết, còn chủ yếu sử dụng các hồi ký và phỏng vấn nhân
chứng. Đối với những người am hiểu, còn rất nhiều sự kiện lịch sử VN
cực kỳ quan trọng, song có thể vì lẽ này, lẽ khác chưa được tác giả đề
cập. Vì vậy, tính đầy đủ và chính xác của nó chắc rằng còn phải thảo
luận nhiều. Các Phụ lục cuối mỗi tập sách không có gì đặc biệt, chưa
tương xứng với nội dung phong phú và những vấn đề rất lớn mà bộ sách đặt
ra. Và, tác giả chỉ nêu các sự kiện lịch sử nhưng không phân tích,
không bình luận làm cho bộ sách thiếu hẳn tính “hàn lâm” – đó không hẳn
là một phương pháp tốt nhất?
Dẫu sao, Bên Thắng Cuộc thực sự là một công trình rất đáng đọc, rất
đáng tìm hiểu, rất đáng suy ngẫm, với tất cả ý nghĩa đầy đủ của nó. Đọc
Bên Thắng Cuộc, chúng ta càng hiểu thêm nhận xét “có một lịch sử như nó
diễn ra và một lịch sử như nhà sử học viết ra”. Thử hỏi, đến nay, đã có
công trình nào phản ánh đầy đủ, trung thực và hấp dẫn lịch sử VN hiện
đại do các nhà sử học VN “nổi tiếng” thể hiện? Cho nên, chúng ta không
đòi hỏi tác giả Bên Thắng Cuộc, song chúng ta có quyền hy vọng…