Một người bạn Pháp, sống ở Đức từ hơn ba chục năm nay, nói với
tôi về thái độ dũng cảm của người Đức khi phải đối mặt với ký ức đen tối
của dân tộc mình, so sánh với sự thiếu dũng cảm của người Pháp. Bà nói
rằng, ở Essen nơi bà sống, vùng bắc sông Ranh, học sinh trung học được
giao việc, như bài tập về nhà, đi điều tra trong khu phố nơi mình đang
sống đã từng có những gia đình Do thái nào sinh sống, họ đã bị Đức quốc
xã bắt đi như thế nào, họ đã chết ở trại tập trung như thế nào. Ký ức về
một trong những tội ác kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại cần được
làm sống lại, không chỉ qua những trang sách lịch sử, mà cả bởi những
ngôi nhà, những khu phố thân quen. Cần phải mở toang những cánh cửa cứ
muốn khép lên số phận những con người đã từng bị đối xử như súc vật.
Ký ức đen tối của dân tộc là một nỗi đau qua lớn đối với tâm hồn trẻ
thơ. Một đứa trẻ còn ở tuổi cắp sách tới trường không có trách nhiệm với
những tội ác mà ông cha nó đã phạm. Liệu có cần thiết hay không khuấy
lên cái nỗi đau đó, làm sống lại cái nỗi đau đó qua từng năm tháng, qua
từng thế hệ. Tại sao người lớn muốn làm đau trẻ con với ký ức về tội ác
xảy ra nửa thế kỷ trước khi chúng ra đời. Tại sao trẻ con không được
quyền sống một cuộc sống hồn nhiên, tin tưởng rằng đất nước mình luôn
luôn tươi đẹp, cha ông mình không làm điều gì mà mình phải cảm thấy xấu
hổ.
Với tôi, lý do ở đây là dân tộc Đức là một dân tộc đã trưởng thành,
người Đức muốn con mình trở thành thành viên của một dân tộc trưởng
thành. Mỗi người thừa kế từ cha ông mình tài sản hữu hình là nhà cửa,
đường sá, tài sản vô hình là thể chế xã hội, là nền tảng đạo đức, tài
sản tâm hồn là ký ức cả vinh quang và nhục nhã. Cái làm nên lòng yêu
nước chính là việc cùng thừa kế, cùng chia sẻ những tài sản đó, có cái
hữu hình, cái vô hình, có cái vinh quang và cái nhục nhã. Tại sao không
lờ những gì nhục nhã, chỉ lưu lại lại những gì vinh quang, ngọt ngào?
Người Đức có lẽ hiểu rất rõ rằng thức ăn cho tâm hồn con người chính là
sự thật. Những dân tộc quen nấu sự dối trá cho mình ăn, sẽ dần dần quen
với sự bạc nhược, sự đớn hèn của chính mình. Thế nhưng người ta vẫn
thích nấu sự dối trá cho mình ăn. Vì sự thật nhiều khi không có lợi,
hoặc là cứng quá, không tốt cho lợi.
Ông bà ngoại tôi sinh ra ở làng Bạch Mai, người ở giữa làng, người ở
cuối làng, gần ngã tư Trung Hiền. Có lần tôi hỏi bà ngoại, làm sao mà
ông bà, người ở giữa làng, người ở cuối làng lại gặp được nhau. Ông
ngoại tôi đã mất, bà ngoại tôi đã lớn tuổi nên cơ hội cho tôi tìm lại ký
ức của mình không còn nhiều nữa. Bà tôi bảo, hôm ấy ông đứng ở gốc bàng
dưới phố mà ngửa cổ gọi vọng lên: “Cô Hằng ơi, cô Hằng ơi”. Được một
lúc thì cụ thân sinh ra bà ngoại tôi thò đầu ra ngoài cửa sổ mắng: “Cái
anh kia, sao cứ đứng giữa đường mà réo người ta thế. Anh gọi con tôi có
việc gì?”.Ông tôi trả lời: “Dạ, con chỉ rủ cô Hằng đi dạy bình dân học
vụ thôi ạ.” Vậy là ông bà ngoại tôi quen nhau khi đi dạy bình dân học
vụ.
Tôi đưa bà ngoại về phố Bạch Mai với hy vọng tìm lại được gốc bàng
nơi ông ngoại tôi đứng gọi bà ngoại tôi ngày xưa. Bà tôi cũng chỉ nhớ
mang máng số nhà và dáng dấp của ngôi nhà nên chúng tôi phải vòng đi
vòng lại mấy lần mà chưa thấy. May mà có cây bàng. Dọc phố Bạch Mai vốn
trồng toàn bàng. Cái không may nhưng lại là may trong trường hợp của tôi
là số bàng còn sống sót cũng không nhiều. Cái nhà giống nhất với những
gì bà tôi còn nhớ bây giờ là một hiệu cầm đồ. Cả dãy phố đó còn lại một
hai cây bàng nhưng có cả chục hiệu cầm đồ. Cái nào cũng giống cái nào,
một đống máy vi tĩnh cũ nát, ba bốn cái xe máy lấm bùn. Tuy là trưa hè,
nhưng người ta vẫn ngồi thành vòng trên hè phố quanh cỗ bài tá lả. Một
vài người nhìn hai bà cháu tôi với ánh mắt thù địch. Tự nhiên nảy ra
trong đầu tôi có một ý nghĩ vu vơ, nhưng là một sự tiếc nuối vô bờ cho
một ký ức đẹp đẽ tinh khôi đã bị mất, để đổi lại hình ảnh bạc nhược của
một đống máy vi tính vô hồn cũ nát, của những chiếc xe máy gỉ sét trong
tiệm cầm đồ. Đành rằng, cầm đồ là một loại hình kinh doanh có lợi.