Friederike Böge
VN2006A, thành viên Dân Luận chuyển ngữ
VN2006A, thành viên Dân Luận chuyển ngữ
Giữa những người Việt ở bên Đông và Tây của thành phố, chiến tuyến của cuộc chiến tranh lạnh vẫn còn hiện hữu.
Những cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa người Việt từ Đông - và Tây Berlin sau khi bức tường đổ dặc biệt khó khăn. Những người Việt từ Đông Berlin chào hỏi chúng tôi là “đồng chí”, Phạm Ngọc Đảnh, người từng là trưởng ban điều hành ngôi chùa Việt Nam ở khu phố Spandau, nhớ lại. Trong tai ông đó là một sự xúc phạm, bởi chào hỏi theo phong cách này làm ông nhớ lại sự “cưỡng chiếm” quê hương ông bởi những người cộng sản. Cũng sự kiện này dường như những người Việt ở phía Đông của thành phố lại nói đến “thống nhất đất nước”. Phạm nói, chấp nhận điều này hoặc ít ra tảng lờ như không nghe thấy không chỉ đối với tôi là chuyện rất khó khăn.
Những cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa người Việt từ Đông - và Tây Berlin sau khi bức tường đổ dặc biệt khó khăn. Những người Việt từ Đông Berlin chào hỏi chúng tôi là “đồng chí”, Phạm Ngọc Đảnh, người từng là trưởng ban điều hành ngôi chùa Việt Nam ở khu phố Spandau, nhớ lại. Trong tai ông đó là một sự xúc phạm, bởi chào hỏi theo phong cách này làm ông nhớ lại sự “cưỡng chiếm” quê hương ông bởi những người cộng sản. Cũng sự kiện này dường như những người Việt ở phía Đông của thành phố lại nói đến “thống nhất đất nước”. Phạm nói, chấp nhận điều này hoặc ít ra tảng lờ như không nghe thấy không chỉ đối với tôi là chuyện rất khó khăn.
Nguyễn Thị Lau sống từ 14 năm nay ở khu phố Hellersdorf phía Đông
Berlin. Chị chưa từng đặt chân đến phần Tây của thành phố. Hội văn hóa
Ngôi Nhà Việt Nam ở khu phố Kreuzberg và ngôi chùa Việt Nam với những
bức tượng Phật cao 3 mét ở Tây Bắc Berlin chị chỉ được biết qua lời kể.
Để giải thích, chị nói rằng "tôi nghe nói người Việt ở Tây Berlin treo cờ VNCH trong các buổi tổ chức”. Tôi sẽ tránh xa, không muốn vinh danh lá cờ này với sự tham gia của tôi.
Ba sọc đỏ trên nền vàng tượng trưng cho một quốc gia không còn tồn
tại từ năm 1975. Lúc đó bộ đội Bắc Việt tiến quân vào miền Nam và dựng
lên một nhà nước XHCN. Hàng trăm nghìn người Miền Nam đã rời bỏ quê
hương ngay sau đó trong những điều kiện có phần bi thảm. Nhiều người
chết đuối khi trốn chạy trên những chiếc thuyền không phù hợp cho biển
cả. Hơn 200.000 những người được gọi là Thuyền nhân trôi dạt đến Cộng
Hòa Liên bang Đức và Tây Berlin. Cho đến nay đối với họ lá cờ VNCH là
biểu tượng/dấu ấn của sự chống lại chính quyền Cộng sản Việt Nam. Đối
với nhiều người nó còn là biểu tượng của Hy vọng, về khả năng quay lại
một nước Việt Nam không Cộng sản.
Nhưng Nguyễn Thị Lau là một phụ nữ Bắc Việt. Chị đến Đông Đức năm
1987 theo diện lao động hợp đồng. Riêng năm đó và những năm tiếp theo
Đông Đức nhận hơn 50.000 công nhân theo hiệp định ký kết với CHXHCN Việt
Nam, nhằm khắc phục sự thiếu thốn về nhân lực lao động. Trong 10 năm
trước đó có chừng khoảng 10.000 học nghề và 700 sinh viên từ Việt Nam
được đào tại tại Đông Đức - một hình thức giúp đỡ phát triển. Nhà chức
trách Việt Nam tuyển lựa kỹ càng, ai được phép sang Đông Đức. “Nhiều người Việt ở Tây Berlin nghĩ rằng, chúng tôi toàn là cộng sản, tất nhiên đó là điều dở hơi”
chị Nguyễn nói với một nụ cười thông cảm. Mặc dù vậy chị không muốn
dính dáng đến văn hóa chống cộng của người Việt ở phần Tây của thành
phố. Chị sợ khi về thăm quê sẽ gặp khó khăn với chính quyền, nếu như bị
xem là có dính dáng đến những người bất đồng chính kiến.
Những cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa người Việt từ Đông - và Tây Berlin
sau khi bức tường đổ dặc biệt khó khăn. Những người Việt từ Đông Berlin
chào hỏi chúng tôi là “đồng chí", Phạm Ngọc Đảnh, ngày ấy là
trưởng ban điều hành ngôi chùa Việt Nam ở khu phố Spandau, nhớ lại.
trong tai ông đó là một sự xúc phạm, bởi chào hỏi theo phong cách này
làm ông nhớ lại sự “cưỡng chiếm” quê hương ông bởi những người cộng sản. Cũng sự kiện này dường như những người Việt ở phía Đông của thành phố lại nói đến “thống nhất đất nước”.
Phạm nói, chấp nhận điều này hoặc ít ra tảng lờ nhưng không nghe thấy
không chỉ đối với tôi là chuyện rất khó khăn. Nhiều gia đình Việt Nam đã
phải chạy trốn 2 lần trước cộng sản: 1954, sau khi chia cắt đất nước
thành một phần cộng sản và một phần thuộc Pháp, và cuối những năm 70 sau
khi Cộng sản chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam. Sự tiếp xúc với
những người Việt ở Đông Berlin lại làm thức dậy những nỗi lo sợ xa xưa.
Tuy nhiên cũng có những khoảnh khắc đáng phấn khích: sau khi bức
tường đổ hàng ngàn công nhân lao động hợp tác đã chạy trốn qua đường
biên giới bỏ ngỏ sang Tây Berlin với hy vọng tỵ nạn. Nhiều người Việt ở
đó đã giúp đỡ ngay một cách tự nhiên, họ quyên góp quần áo, chỗ ăn ngủ
vào theo giúp những người tìm tỵ nạn nơi các nhà chức trách. “Người của chúng tôi muốn giúp đỡ, vì họ cảm thấy nhớ đến sự trốn chạy của chính bản thân trước đây 20 năm”,
Phạm Ngọc Đảnh nói. Bản thân ông cũng dùng ngôi chùa ở Spandau là nơi
trung chuyển cho những người tìm tỵ nạn. Phạm xem bản thân mình là người
trung gian giảng hòa giữa các phía và ngôi đền là nơi của gặp gỡ. Phật
giáo kết nối nguười Việt từ Đông và Tây, cho dù đối với nhiều người Việt
phía Đông thăm ngôi chùa là một kinh nghiệm mới mẻ, vì từ một vài năm
nay ở Việt Nam lại được phép thực thi tôn giáo.
Đối với các đồng bào phía Đông, Phạm không muốn đả động về chính trị và lịch sử Việt Nam. “Cái đó chỉ tạo ra thù hận không cần thiết”,
người đàn ông đã 65 tuổi nói. Quan trọng hơn là tương lai chung. Tuy
nhiên Phạm cũng không muốn từ bỏ lá cờ VNCH, lá cờ được treo lên trong
những ngày Tết ở trên hàng rào của ngôi chùa Spandau. “Anh không thể từ bỏ một cách đơn giản một biểu tượng, mà anh đã chiến đấu vì nó, mà cha mẹ anh đã bỏ mình vì nó.”
Sau những niềm vui ban đầu về bức tường được đục bỏ, quan hệ giữa
những người Việt ở Đông và Tây Berlin trong những năm 90 lạnh nhạt rõ
đi. “Lỗi cho sự lạnh nhạt này là đám mafia thuốc lá.” Phạm Đang
Hiếu của Hội Văn hóa Ngôi Nhà Việt Nam ở khu phố Kreuzberg nói. Nhiều
người Việt ở Tây Berlin tức giận, bởi danh tiếng của họ trong mắt công
chúng Đức bị tổn hại, họ muốn chỉ ra rằng họ không liên quan đến đồng
bào ở Đông Berlin, mà nhiều người trong số họ đã tham gia các kinh doanh
bất hợp pháp. “Họ cũng không thèm phân biệt giữa những thương nhân hợp pháp và bất hợp pháp”, Phạm thừa nhận.
Phần lớn người Việt phía Đông ngày nay là tiểu thương độc lập, hoặc
làm việc là người bán hàng cho những người Việt khác. Vì sau khi Đông
Đức sụp đổ, họ là những người đầu tiên trong các nhà máy bị thất nghiệp
trong vòng mấy tháng đầu. Để kiếm chút vốn ban đầu, hoặc trong niềm hy
vọng, cố gắng kiếm được nhiều tiền trước khi bị trục xuất, để đáp ứng
nhu cầu của người thân ở quê nhà, nhiều người tìm vận may của mình là
tiểu thương thuốc lá bất hợp pháp. Tuy nhiên từ đầu năm 1992 khi có dấu
hiệu là công nhân lao động hợp tác được phép ở lại lâu dài, gần như toàn
bộ những người công nhân hợp tác còn lại đều chuyển sang buôn bán hợp
pháp. Vào thời điểm này một phần lớn người Việt đã rời bở Đức với một số
tiền đền bù 3000 Mark.
“Người Việt Tây Berlin không muốn chấp nhận rằng chúng tôi bây giờ không phải là những đồng bào nghèo khó từ phía Đông”,
Vũ Minh Thu nói, một người chuyên bán áo len và thun ở khu chợ Việt Nam
ở Marzahn. Như để chứng minh, chị kể là ở siêu thị Asia Shops Đông
Berlin, thuộc sở hữu người Việt Tây Berlin, phần lớn các mặt hàng được
bán rẻ hơn là ở bên Tây. Đặc biệt xe hơi của chị là một cái gai trong
mắt nhiều người “Việt phía Tây”, chị tin vậy: “Họ cho rằng chúng tôi thích khoa trương và quên rằng chúng tôi cần xe hơi để chuyên chở hàng hóa.”
Nói cho cùng, chị nói, danh tiếng của tôi cũng bị tổn hại bởi việc buôn
bán thuốc lá (lậu). Trước đây công nhân Việt Nam được đánh giá là những
người chăm chỉ. Thậm chí nhiều người Đông Đức còn ngưỡng mộ chúng tôi: “vì chúng tôi đánh bại Đế quấc Mỹ” :-))
Định kiến có sẵn về những người Bắc Việt tham lam không phải cái gì
mới. Nó là những định kiến phổ biến của Nam Việt Nam đối với Miền Bắc. “vùng mà chúng tôi xuất thân luôn luôn đóng một vai trò to lớn”,
Vũ nói, người phụ nữ như phần lớn người Việt ở Đông Berlin, xuất thân
từ miền Bắc Việt Nam. Nhưng Ở Berlin thường không đả động đến định kiến
Bắc - Nam, mà là người Việt ở miền Tây - và Đông (nước Đức).
Wilfried Lulei, Giáo sư thỉnh giảng về Việt Nam học của Đại học tổng
hợp Humboldt - Berlin, cho rằng chỗ đứng đạt được khác nhau trong Xã
hội, của người Việt miền Đông và miền Tây nước Đức là nguyên nhân chính
cho xung đột hiện nay. “Công nhân lao động hợp tác Việt Nam ở Đông Đức gần như không được hòa nhập vào xã hội”.
Việc hòa nhập cũng chưa từng bao giờ được đặt ra, người Việt chỉ được ở
Đức 4, 5 năm - một mình, không có người thân. Nhiều người để lại vợ
hoặc chồng và con cái ở Việt Nam trong thời gian này. Cũng bởi vậy đầu
tư công nhân hợp tác lao động gần như toàn bộ tiền lương của họ vào hàng
hóa, thú mà họ khi qua lại Việt Nam đem ra lưu thông trên thị trường.
Rất ít trong số họ nói tiếng Đức, vì họ sống biệt lập trong những ký túc
xá. Phụ nữ mang thai bị gửi trả về hoặc phải bắt buộc nạo thai. Sau khi
Đông Đức thay đổi các (cựu/nguyên) công nhân lao động hợp tác đã phải
sống trong khoảng không không luật pháp. Cho đến 1997 còn chưa rõ ràng,
liệu họ có được phép thường trú ở Đức hay không. Cho đến thời điểm đó
cuộc sống của họ tập trung vào các mục tiêu trước mắt (ngắn hạn). Thêm
nữa là vấn đề ngôn ngữ và sự phụ thuộc vào phiên dịch (thông ngôn) người
Việt, những người đã theo giúp họ thời gian Đông đức khi có việc công
quyền.
Hoàn toàn ngược lại với những người Việt ở Tây Berlin, họ được công
nhận ngay là những người tỵ nạn chính trị sau khi trốn chạy (khỏi Việt
Nam) đến Cộng hòa Liên bang Đức. Nhờ có sự bảo trợ của nhà nước trong
các chương trình đào tạo và ngôn ngữ, nhiều người trong số họ có thể hòa
nhập vào thị trường lao động. Con cái họ thường học cao đẳng và đại
học. Vì vậy các cựu/nguyên thuyền nhân được đánh giá là các ví dụ điển
hình cho sự hội nhập ở Đức. Nhiều người trong họ có quốc tịch Đức.
Trong những năm qua Lulei quan sát thấy dần dần có sự tốt lên trong quan hệ giữa người Việt ở Đông và Tây Đức. “Nguyên nhân chính là sự nới rộng về chính trị của chính Việt Nam”, nhà Việt Nam học nói. Cái đó làm cho nhiều người Việt ở phần Tây của thành phố giờ đây từ bỏ sự đối đầu với Cộng sản của họ. “Ngoài ra nhiều người trẻ không nghĩ theo các phạm trù chính trị”, Lulei nói. Họ gặp nhau ở các buổi nhạc hội và say mê cho cùng một đội bóng.
Tuy vậy Nguyễn Thị Lau từ khu phố Hellersdorf không cảm nhận được
nhiều về chuyện đó. Một bạn gái của chị đã cưới một người Việt từ Tây
Berlin. Từ sau khi cưới đến giờ Nguyễn không gặp lại người bạn nữa. “Chồng cô ta không muốn cô ta giữ quan hệ với chúng tôi. Anh ta sợ [người Việt ở] phía Đông”. Để tránh gây ra ấn tượng là mình bị xúc phạm vì chuyện đó, chị nói: “Ở phía Đông này có đủ người Việt để tôi giao lưu”.
Nguồn: Tạp chí Der Überblick