Minh Diện
Ngày 16-5-2006 trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa
11, Thủ tướng Phan Văn Khải từ nhiệm trước một năm, nhường ghế cho Phó
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kế nhiệm mình. Hơn một tháng sau, ngày
27-6-2006, ông Nguyễn Tấn Dũng trở thành tân Thủ tướng, sau 2 nhiệm kỳ
liền làm Phó Thủ tướng Thường trực, phụ trách khối Tài chính - Ngân hàng
và một số khu vực kinh tế Nhà nước khá quan trọng. Đó là cuộc chuyền
giao quyền lực cơ quan hành pháp giữa nhiệm kỳ đầu tiên ở Việt Nam, mà
hình ảnh ấn tượng nhất là cái bắt tay hình thức giữa một ông già thấp
bé, cổ nghểnh, từng luống cuống làm rơi tờ giấy cẩm nang khi gặp Tổng
thống Hoa Kỳ Geerge Bush ngày 21-6-2005, với một người trẻ tuổi, cao to,
có nét phong độ.
Một năm sau, ngày 25-7-2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tái đắc cử,
với số phiều gần như tuyệt đối 96,96%. Đến thời điểm đó Nguyễn Tấn Dũng
là một Thủ tướng trẻ nhất Việt Nam.
Ông sinh ngày 17-11-1949, nhằm ngày 27 tháng 9 năm Kỷ Sửu, cung Càn,
cầm tinh con trâu, mạng tích lịch hỏa, thường là tuổi của những người
lãnh đạo bẩm sinh, có đặc tính thể hiện cái tôi mạnh mẽ, không chịu
nhường nhịn ai, không cho ai cản đường, độc đoán chuyên quyền, bảo thủ
cố chấp, không nghe lời khuyên chân thành mà dễ xiêu lòng vì nịnh nọt,
tình tình dễ nổi nóng, nên có khi phá hỏng hình ảnh của mình.
Với một khuôn mặt đầy đặn, thường là tươi tắn, trang phục chỉn
chu, nói năng lưu loát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng không bị lép khi đứng
bên cạnh Thủ tướng các nước trong khu vực, thậm chí với các nguyên thủ
quốc gia phương Tây. Ông có phong thái ngoại giao chững chạc, không
luống cuống như người tiền nhiệm, cũng chưa có những câu nói hớ làm trò
cười cho thiên hạ như “nhà hùng biện” Nguyễn Minh Triết.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tạo cho mọi người thấy một gương mặt lãnh đạo trẻ, năng động, và tự tin hơn.
Trong buổi lễ nhậm chức, Thủ tướng đã khẳng định sẽ đưa nền kinh
tế Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao đời sống các tầng lớp nhân
dân, điều hành một chính phủ trong sạch, thực thi dân chủ, công bằng,
nếp sống văn minh. Ông bày tỏ quyết tâm phòng chống tham nhũng, một vấn
đề bức xúc nhất, nan giải nhất mà người tiền nhiệm bó tay, và ông đặt
cược sinh mạng chính trị của mình vào trận tuyến nóng bỏng này: “Tôi
kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu tôi không chống được tham
nhũng tôi xin từ chức ngay!” (Phát biểu trong lễ nhận chức Thủ tướng chính phủ 27-5-2007).
Về tự do dân chủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị Quốc hội: “Cần
sớm có Luật biểu tình để nhân dân thực hiện quyền được ghi trong Hiến
pháp” (Phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011). Ông khằng định
dân chủ là nền tảng của một xã hội công bằng văn minh. Ông nói: Phải
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, nhất là
dân chủ trực tiếp, xây dựng xã hội đồng thuận, cởi mở ” (Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội Dương Thị Bạch Mai 24-11-2010).
Đối với chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng tuyên bố dõng dạc trước Quốc hội : “Chúng ta đã làm chủ ít
nhất là từ thế kỷ 17 hai quần đào Hoàng Sa và Trường Sa. Đối với Hoàng
Sa, năm 1956, Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các quần đảo phía Đông, năm
1974, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ đảo Hoàng Sa trong sự
quản lý của chính quyền Sài Gòn. Chính phủ Việt Nam cộng hòa đã lên
tiếng phản đối, lên án việc này và đề nghị Liên hiệp quốc can thiệp.
Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc đó, cũng đã
ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng của Trung Quốc. Lập trường nhất
quán của chúng ta là, quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam,
chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định vấn đề này” (Phát biểu trước Quốc hội ngày 25-11-2011).
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nổi bật như một ngôi sao sáng.
Nhiều người, trong đó có tôi kỳ vọng ở ông.
Thực tế thời kỳ đầu đắc cử, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xứng đáng với kỳ vọng ấy.
Nhà phân tích chiến lược phát triển kinh tế Mỹ, nguyên Chủ tịch
hội đồng quan hệ thương mại Hoa Kỳ - ASEAN, Ernest Bower, nhận xét:
“Trong 200 ngày đầu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tạo cho mọi người thấy
một khuôn mặt lãnh đạo trẻ năng động, quyết đoán, hành động kiên quyết
hơn. Ông được giao nhiều quyến hành hơn và ông tin tưởng vào những quyết
định của chính sách mà ông đưa ra. Ông đã làm cho thế giới có một cái
nhìn khác về Việt Nam!”.
Đúng như vậy! Bằng nỗ lực của mình, Thủ tướng đã kêu gọi được
nhiều nhà đầu tư vào Việt Nam, đưa vốn đầu tư nước ngoài cao nhất kể từ
trước tới nay, bao gồm vốn đầu tư trực tiếp, và cả đầu tư chứng khoán.
Những dự án quy mô vài trăm triệu đô la xuất hiện trên mặt báo, tạo ra
không khí cạnh tranh sôi động, Việt Nam vượt lên 8 bậc về môi trường hấp
dẫn đầu tư.
Về phòng chống tham nhũng, ông đã cố gắng minh bạch hệ thống hành
chính, bớt đi sự mập mờ trong mối quan hệ xin cho, giao quyền cho chủ
động cho địa phương và cấp dưới. Việc tiến hành điều tra, đưa ra xét xử
vụ PMU 18, là quyết tâm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bởi, ai cũng biết
“nhóm lợi ích” ấy có ô che rất lớn là Tổng bí thư Nông Đức Mạnh. Kế đó
Thủ tướng không ngần ngại xử lý vụ “Đề án tin học hóa hành chính nhà
nước 112”, một Phó chủ nhiệm văn phòng chính phủ đã phải vào tù.
Về ngoại giao, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cải thiện đáng kể uy
tín và hinh ảnh đổi mới của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế. Ông phá vỡ
khối băng dày 60 năm giữa Việt Nam và Vatican, một quốc gia nhỏ bé nhưng
đầy quyền lực, là linh hồn của hơn một tỷ tín đồ thiên chúa giáo, trong
đó Việt Nam có 6 triệu, là một trung gian quyền lực thế giới, bằng việc
tiếp kiến Đức giáo hoàng Benisdico XVI ở Vatican.
Sự kiện Viêt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại
thế giới WTO, việc tổ chức thành công Hội nghị APEC 14, và việc Việt Nam
trở thành “Thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hiệp
quốc” đánh dấu những mốc son hội nhập và nâng cao uy tín của Việt Nam
trong đó có công lao của Thủ tướng.
Tháng 5-2007 Tạp chí World Business bình chọn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là 1 trong 20 nhân vật cải cách ở châu Á.
Trong hội nghị “Diễn đàn kinh tế thế giới” nhóm họp tại Davos Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nằm trong nhóm lãnh đạo hạng A.
Đó là những điềm không thể phủ nhận.
Nhưng hình như có một quy luật, càng nóng nhanh càng mau nguội,
ngôi sao càng chói sáng càng dễ mờ, bởi nguồn năng lượng cạn kiệt. Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng với nhiều bứt phá, muốn rút ngắn công việc một
nhiệm kỳ 5 năm xuống 4 năm, nhưng có lẽ do “giục tốc bất đạt” ông bị va
vấp quá nhiều trong giai đoạn tiếp theo.
Cuộc khủng khoảng kinh tế toàn cầu như một cơn sóng thần cuốn
phăng cả những nền kinh tế hùng mạnh nhất. Việt Nam đã có quá trình hội
nhập, nên cũng bị ảnh hưởng. Nhưng cùng hoàn cảnh, thậm chí hội nhập sâu
hơn, tình hình chính trị và xã hội, cũng như môi trường khí hậu bất lợi
hơn, nhưng các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, đã
ứng phó thích hợp, nên đáy suy thoái nông và vượt thoát nhanh hơn.
Trái lại Việt Nam vũng xoáy suy thoái dường như không đáy, và không biết đến bao giờ mới vượt lên được?
Có nhiều nguyên nhân, nhưng sai lầm về hoạch định đường lối và
điều hành chính sách kinh tế vĩ mô là nguyên nhân chính. Và sai lầm này
thuộc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Ông là Trưởng ban hoạch định kinh tế của Ban chấp hành trung ương
đảng. Ông đã đề nghị ghi vào văn bản báo cáo trước Đại hội X: “Thúc đẩy
việc hình thành tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt
động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có một số ngành chính, có nhiều chủ
sở hữu, trong đó chủ sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối”.
Hệ lụy của nền kinh tế vĩ mô bắt nguồn từ quan điểm này.
Thực ra nó không mới, mà đã nhen nhúm từ những năm đầu thập kỷ 90,
khi Đỗ Mười làm Tổng bí thư, và ông Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng. Đỗ Mười
sau khi thăm Hàn Quốc, đã nảy ra ý tường “Một nền kinh tế phát triển
phải có những quả đấm thép!”. Để thực hiện ý tưởng Đỗ Mười, một nửa số
Ủy viên Bộ Chính trị nhiệm kỳ đó, đã khăn gói sang Hán Quốc “tầm sư hoc
đạo”, và cảm thấy choáng ngợp bởi mô hình Chealbot.
Ông Võ Văn Kiệt cũng tán thành, nhưng khá thận trọng, nên chỉ ban
hành hành hai quyết định 90, 91, thành lập thí điểm tập đoàn kinh tế
mạnh. Năm 1997, Phan Văn Khải thay ông Võ Văn Kiệt, nhút nhát hơn, nên 9
năm sau mới cho ra đời được 3 tập đoàn là: Tập đoàn công nghiệp than –
Khoáng 26-12-2005, Tập đoàn bưu chính viễn thông 09-01-2006, Tập đoàn
công nghiệp tàu thủy Vinashin 15-05-2006. Ông Phan Văn Khải đã ký quyết
định cho Vinashin vay 700 triệu đô la với kỳ vọng ngành đóng tàu Việt
Nam ngoi lên hàng đầu thế giới.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với tư duy bứt phá, đầy nhanh tốc độ
phát triển tập đoàn mạnh. Nhậm chức ngày 27-6 ngày 29-8-2006 ông ký
quyết định thành lập Tập đoàn dầu khí, ngày 3-10, Tập đoàn cao su và,
đến năm 2011 đã có 13 “quả đấm thép” đã ra đời.
Các tập đoàn với chức năng đa ngành nghề, nên mạng lưới tỏa rộng
khắp mọi nơi, lại có quyền liên doanh liên kết, quyền độc lập hoạch định
chiến lược phát triển và cấu trúc kinh tế nên không ai kiểm soát được.
Hai ngành mà các tập đoàn hăng hái đầu tư nhất là bất động sản và ngân
hàng. Các trụ sở ngân hàng thương mại cổ phần mọc lên như nấm, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất chất đầy các ngăn tủ mỗi tập đoàn.
Trụ sở các tập đoàn hoành tráng mọc lên như ganh đua với tòa nhà
chọc trời Petroland của Tập đoàn dầu khí, những ông chủ tập đoàn vừa
khoác áo quan chức, đầy quyền uy, lại vửa khoác áo doanh nhân tha hồ
buông thả, dưới một người, trên muôn người, xài tiềm xả láng.
Một tập đoàn ra đời vốn tự có nhiều lắm là trăm tỷ đồng, chủ yếu
là nhà cửa đất đai của nhà nước, nên hầu như 100% vốn hoạt động vay ngân
hàng, dưới sự bảo trợ của chính phủ. Trên thế giới không có bất kỳ một
tổ chức kinh tế nào được ưu ái như những tập đoàn kinh tế Việt Nam, được
mệnh danh là vai trò chủ đạo nền kinh tế của đất nước, được nhà nước
bao bọc từ A đến Z, như những đứa con cưng được nha mẹ chăm bẵm! Hầu như
toàn bộ ngân sách dành cho phát triển kinh tế, cả nguồn vốn ODA, đều
ném vào các tập đoàn, ngân sách cạn thì đi chính phủ bảo lãnh cho vay
nước ngoài. Xin lấy ví dụ một tập đoàn điển hình là Vinashin.
Ngay khi thành lập, Vinashin đã sược vay 700 triệu đô la. Sau 4
năm hoạt động tập đoàn này vay thêm 80.000 tỷ nữa. Không biết họ làm ăn
ra sao, nhưng khi nghe Chủ tịch Hội đồng quản trị Phạm Thanh Bình kêu
than không được phát hành tín phiếu, Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng sửng
cồ lên: “Ai không cho các anh làm tín phiếu?”. Và sau đó 10.000 tỳ
đồng tín phiều chính phủ được bơm thẳng vào cái tàu không đáy Vinashin.
Ngày đó tôi được biết có người đã thẳng thắn can gián Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, nhưng ông tin Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng hơn.
Trước kia chính phủ có một bộ phận tư vấn kinh tế, đứng đầu là
tiến sỹ Lê Đăng Doanh, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã dẹp bỏ, thay các
chuyên gia kinh tế bằng những chuyên gia luật pháp như thượng tướng
Nguyễn Văn Hưởng, hình như đó cũng là một nguyên nhân dẫn đến những bất
cập trong những quyết định về kinh tế và những quyết định mất lòng dân
về tự do dân chủ?
Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức, ông có trong tay 23 tỷ đô
la vốn dự trữ, đó là số tiền không nhỏ, tích cóp được qua nhiều năm từ
thuế của dân và tài nguyên của đất nước. Khi nền kinh tế lâm vào tình
trạng thiểu phát, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tung ra một gói kích cầu
143.000 tỷ đồng tương đương 8 tỷ đô la. Nhưng nguồn tiền khổng lồ ấy
chảy không đúng các mục tiêu, nên không có khu vực kinh tế nào được khởi
sắc. Nó chỉ chỉ có ít tác dụng vào cuối năm 2009, rồi bị hụt hẫng ngay
khi bước sang năm 2010.
Tiền dự trữ quốc gia bung ra làm bội chi ngân sách tăng vọt, và
tình trạng bất ổn xuất hiện ngay từ khi nền kinh kế nhìn bề ngoài có vẻ
còn hưng vượng.
Trước năm 2006 tổng đầu tư nhà nước lớn nhất không vượt quá 36%
GDP, năm 2007 tăng vọt lên 44% và 2008 lên 47%. Vốn đầu tư tăng vọt kéo
theo tăng trường tín dụng, năm 2006 : 21,4%, 2007: 38,7% và đó là lực
đẩy con tàu lạm phát tăng tốc.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn hãm phanh con tàu lạm phát bằng
biện pháp nâng dự trữ bắt buộc của ngân hàng và thắt chặt chi tiêu,
nhưng hình như đó chưa phải là một liều thuốc đúng, hơn nữa do sức mạnh
quyền lực bị hạn chế, bị các nhóm lợi ích chi phối, nên không có tác
dụng, tỷ lệ lạm phát từ 9,9 % năm 2008 leo lên 12,3 % năm 2009, rồi
16,2% năm 2010, 17,5% năm 2011 và 18,2% mấy tháng đầu năm 2012.
Lợi dụng đục nước béo cò, nhóm lợi ích tài chính ra tay đục khoét
ngân hàng, bẻ gãy xương sống của nền kinh tế! Tiền từ ngân hàng nhà nước
tuồn cho ngân ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng này chuyền tiền
qua ngân hàng kia, tạo ra cái “đèn cù ngân hàng” loanh quanh “kinh doanh
tiên ftệ”, ăn lãi suất chênh lệch. Lãi suất huy động hạ cực thấp bóp
chẹt dân, lãi suất cho vay lại tùy sự thỏa thuận. Những gói kích cầu
hàng chục ngàn tỷ đống tiếp theo trở thành miếng mồi béo bở cho các nhóm
lợi ích. Những Nguyễn Đức Kiên, Trần Xuân Giá chưa phải là trùm của
băng nhón tội phạm này, và Thống đốc Nguyễn Văn Bình không phải vô can
khi để cho các băng nhóm thâu tóm ngân hàng!
Ngày 25-5 -2012, Thủ tướng ban hành Nghị định 24, là cú đòn quyết
định hạn chế lạm phát, ổn định thị trường vàng nói riêng, giá cả nói
chung, nhưng đó lại là một cú sốc gây phản ứng trái chiều.
Bức tranh kinh tế Việt Nam tôi đã mô tả trong bài viết trước, nay
chỉ xin ghi lại tấm biểu đồ tăng trường kinh tế Việt Nam, tôi nghĩ đây
cũng là “tấm biểu đồ sụt giảm uy tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng”:
Năm 2002 : 7,08%; 2003: 7,34 %; 2004: 7,79 %; 2005: 8,44 %; 2006: 8,38
%; 2007: 8,23 %; 2008: 6,31 %; 2009: 5,32 %; 2010: 6,78 %; 2011: 5% và
năm 2012 chỉ còn 5,03 %.
"Với trọng trách là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ,
tôi nghiêm túc nhận trách nhiệm chính trị lớn
của người đứng đầu Chính phủ và xin
thành thật nhận lỗi trước QH, trước toàn Đảng, toàn dân
về tất cả những yếu kém, khuyết điểm
của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành". ..
Nhưng sa sút về kinh tế, chưa hẳn đã là nguyên nhân chính làm mọi
người thất vọng về Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Sự thất vọng lớn hơn vế
ông là những quyết định, lời nói và việc làm của ông không nhất quán.
Hầu như việc gì, ở đâu ông vẫn cố gắng nói hay, nói cho lọt tai người
khác, diễn đạt khúc chiết, hứa ngon hứa ngọt, nêu quyết tâm cao, việc gì
cũng “quyết liệt”, nhưng nhiều vấn đề sau khi “quyết” là bị “liệt”
luôn. Nói hay, làm dở, nói mạnh nhưng không làm là đặc điểm nổi bật của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã được dư luận đúc kết.
Ông nói phát huy quyền làm chủ rộng rãi, nhưng ông lại ký chỉ thị
37: “Kiên quyết không để tư nhân hóa dưới mọi hính thức, không để bất kỳ
tổ chức, cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí phục vụ lợi ích riêng”.
Ông lên án Trung Quốc chiếm biển đảo Việt Nam nhưng ngay sau đó lại
đồng tình cho chính quyến thành phố Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh đàn áp và vu
cáo người biểu tình là gây rối! Ông nói như đinh đóng cột là không chống
được tham nhũng sẽ từ chức ngay, nhưng khi thất bại, thì không nói lại
một lời với dân cho phải đạo, cho có trước có sau!
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng quá dễ dãi trong ban phát chức tước
quyền hành cho ba người con của mình. Nhẽ ra với cương vị một người
đứng đầu chính phủ ông phải biết tự kiềm chế cái tiểu tiết để giữ cái
đại cục, như Khổng từ nói: “Đừng đừng để con dê béo che mất trái núi!”.
Người ta đã nói đi nói lại lời trần tình của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng tại kỳ họp Quốc hội, tôi cho đó là lúc ông nói thật nhất, bởi nếu
không, ông sẽ có một cách nói khác.
Tuy nhiên từ đó tôi nghĩ, nếu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rộng lượng
với dân, với người khác, như rộng lượng với bản thân, với vợ con, anh
em nội ngoại của mình thì dù ông có là X, là Y gì đi nữa, ông vẫn dành
được tình cảm của nhiều người. Đáng tiếc việc hành xử của ông trong vụ
án tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, và mới đây nhất, cho công bố bản kết luận của
Thanh tra chính phủ về sai phạm đất đai của thành phố Đà Nẵng, gây nhiều
phản cảm. Hình như điều này ứng vào tính cách của người tuổi Kỷ Sửu, mà
tôi đã trình bày ở trên: “Không nghe lời khuyên chân thành lại dễ xiêu
lòng bời lời nịnh nọt, và dễ nổi nóng nên có khi phá hỏng hình ảnh của
mình”! Hai nhiệm kỳ Đại hội IX và X Đảng đã gần như khoán trắng, giao
quá nhiều quyền cho Chính phủ. Gần 20 năm giữ trọng trách như Phủ Chúa ở
Ba Đình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lúc đầu có những biểu hiện đem lại
sự kỳ vọng không chỉ trong nước mà còn có cảm tình với một số chính
khách trên thế giới. Nhưng từ năm 2012, ông đã làm cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân cả nước phải thất vọng.
Nhân ngày 22-12-2012 ông Ba Dũng đã xem vở “Lời thề thứ Chín”. Hai
điều quan trọng nhất trong lời thề ấy là “Kính trọng dân, bảo vệ dân,
giúp đỡ”, tôi hy vọng ông Ba Dũng không quên điều đó.
M.D