Lê Anh Hùng
“Dân hai lăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.”
Tản Đà
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.”
Tản Đà
Trước tình trạng thu hồi đất nông nghiệp vô tội vạ rồi đền bù rẻ mạt
trên khắp các tỉnh thành ở Việt Nam mà không một tổ chức dân cử nào lên
tiếng bảo vệ quyền lợi cho họ, người ta dễ nhận thấy thân phận rẻ rúng
của những cử tri nông dân trên một đất nước có tới hơn 70% dân số sống ở
nông thôn, những người đã bầu lên đủ kiểu đại diện chính trị cho mình
trong một chính thể tự xưng là “của dân, do dân và vì dân”. Thậm chí,
ngay cả khi người nông dân bị cướp trắng thành quả lao động như trường
hợp gia đình anh Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng mà vẫn không có một vị “đại
biểu nhân dân” nào do họ bầu lên bày tỏ thái độ bênh vực quyền lợi của
họ, từ đại biểu HĐND xã cho đến vị ĐBQH quyền uy đầy mình là đương kim
Thủ tướng.
Ở các quốc gia phát triển, mặc dù chính phủ của họ luôn hô hào “tự do
thương mại” và đặt ra những đòi hỏi cao về mức độ mở cửa thị trường đối
với các nước đang phát triển khi đàm phán các hiệp định thương mại đa
phương hay song phương, song nông dân của họ vẫn luôn nhận được nhiều ưu
ái, thể hiện qua các chính sách bảo hộ nông nghiệp dưới những hình thức
đa dạng và tinh vi, bất chấp thực tế nông dân chỉ chiếm một tỷ lệ rất
nhỏ trong cơ cấu dân số của họ. Ở những nước đang phát triển và theo chế
độ dân chủ như Thái Lan chẳng hạn, tiếng nói của người nông dân luôn
được chính phủ lắng nghe và phản ứng tích cực. Lý do là vì ở những quốc
gia đó, nhân dân nói chung và người nông dân nói riêng được hưởng đầy đủ
các quyền tự do chính trị, trong đó có quyền lựa chọn người đại diện
đích thực của mình trong bộ máy chính quyền. Tuy những chính sách bảo hộ
như thế thường nhuốm màu chính trị (chủ nghĩa dân tuý hay chủ nghĩa bảo
trợ) chứ không phải vì lý do kinh tế và không một cuốn sách giáo khoa
kinh tế nào lại cổ vũ cho chính sách bảo hộ thương mại, song điều này
càng cho chúng ta thấy rõ thực tế rằng chính phủ chỉ thực sự là “của
dân, do dân và vì dân” khi người dân nắm quyền định đoạt vận mệnh chính
trị của nó thông qua những lá phiếu bầu cử dân chủ.
Ở Việt Nam thì ngược lại, nhân dân nói chung và người nông dân nói riêng xem ra chẳng là “cái vé” gì cả. Điển hình là các đơn kiến nghị, thỉnh nguyện thư đủ kiểu của nhân dân gửi các vị lãnh đạo, các cơ quan nhà nước nhưng hầu như chẳng bao giờ được hồi âm. Vô số bài viết trên các trang báo đã chỉ ra sự bất cập của những chính sách về nông nghiệp – nông dân – nông thôn, song tất cả rồi cũng lần lượt rơi vào im lặng chứ hầu như không tạo ra được một sự biến chuyển đáng kể nào. Đơn giản là với cơ chế “Đảng cử, dân bầu” suốt hàng chục năm qua, các “cử tri” ở Việt Nam gần như chẳng có chút ảnh hưởng gì tới sinh mệnh chính trị của các vị “quan cách mạng” cả.
Trong một hệ thống mà Đảng “lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện”, tiếng
nói của “nhân dân” hiếm khi được đếm xỉa tới, và tầng lớp “quan cách
mạng” từ cấp nhỏ nhất đến cấp cao nhất đều lấy phương châm “dựa vào nhau
mà sống” để tồn tại. Các cuộc bầu cử Quốc hội hay HĐND các cấp đều có
tỷ lệ cử tri đi bầu đạt gần 100% dù trên thực tế tình trạng thường gặp
là một người đi bầu cho cả nhà. Do không có cạnh tranh chính trị nên các
con số liên quan đến bầu cử thường bị phù phép, bởi chẳng có chủ thể
độc lập nào giám sát thực hư của những con số đó. Quả thực, ngay cả lá
phiếu của cử tri, “tiếng nói tập thể” đáng kể nhất của nhân dân, mà còn
bị vô hiệu hoá như thế thì còn trông mong gì ở những “tiếng nói” lẻ tẻ
khác? Vụ việc ngày 22/5/2011, một người dân ở Cà Mau trên đường đi chợ
đã nhặt được 85
phiếu bầu cử HĐND xã có đóng dấu đỏ (hợp lệ) khiến dư luận một phen
ồn ỹ nhưng rồi lại nhanh chóng rơi tõm vào sự im lặng quen thuộc của
nhà chức trách, hay loạt bài “Chuyện đồng
chí Minh Nhớp” của nhà báo Phan Thế Hải về trò hề “bầu cử Quốc hội” ở
Hà Tĩnh một thời, mới chỉ cho chúng ta thấy phần nổi nhỏ xíu của tảng
băng khổng lồ thôi.
Mỗi kỳ “tiếp xúc cử tri” theo quy định của pháp luật, các vị “đại
biểu nhân dân” thường chỉ tiếp xúc với các “đại cử tri” quen mặt và đã
được chính quyền sở tại “sàng lọc” kỹ để khỏi đưa ra những câu “hỏi
xoáy”. Các vị “đại biểu nhân dân” cũng chẳng cần phải bận tâm nhiều về
điều đó, bởi họ làm “đại biểu nhân dân” chủ yếu là do “tổ chức phân
công”, do “cấp uỷ bố trí”, hơn là do nhân dân lựa chọn và gửi gắm thông
qua những lá phiếu dân chủ. Và do được cấp uỷ “phân công” hay “bố trí”
như thế nên một khi trở thành “đại biểu nhân dân”, họ cũng nhất nhất
“quán triệt” theo chỉ đạo của lãnh đạo Đảng các cấp. Câu chuyện do nguyên ĐBQH Nguyễn Minh Thuyết
kể về Nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các
tỉnh mà Quốc hội thông qua ngày 29/5/2008 là một minh chứng điển hình:
“Khi thăm dò dự án mở rộng Thủ đô, tôi nhớ có 226 phiếu thuận và 226
phiếu chống. Nhưng khi biểu quyết thì tỷ lệ lên tới 92,9% tán thành.” Rõ
ràng ở đây chỉ có ba khả năng sau xảy ra: (i) các vị ĐBQH này đích thị
là những “con rối”, (ii) họ biết “lá phiếu” hay “nút bấm” của mình luôn ở
trong “tầm ngắm” nên sau khi đã được “chỉ đạo” họ đành phải “quán
triệt” (bởi một lẽ đơn giản là trong cái gọi là “Nhà nước pháp quyền
XHCN” ở VN thì mỗi “công dân” đều là một “tù nhân dự khuyết”), và (iii)
con số kia lại bị “phù phép” như đã nói ở trên. “Nhà dột từ nóc”, “quyền
lực tuyệt đối thì tha hoá tuyệt đối” – thiết tưởng chẳng có gì đáng
phải “băn khoăn” ở đây cả.
Chắc chắn là nhiều vị đại biểu nhân dân, đặc biệt là Đại biểu Quốc
hội, rất muốn lên tiếng trước những vấn đề nóng bỏng của đất nước hay
những bức xúc của cử tri, đơn giản là chẳng ai muốn bị liệt vào hàng
“nghị gật” hay “nghị vỗ tay” cả. Ngặt nỗi, bản thân họ cũng chỉ có
“quyền” thực hiện vai trò của một
“ông bưu điện” là tiếp nhận đơn thư của nhân dân và đóng dấu “kính
chuyển” cho các cấp chính quyền rồi ngồi chờ câu trả lời theo kiểu được
chăng hay chớ thôi. Những đơn thư chứa chất bao nỗi niềm của nhân dân cứ
thế lòng vòng một hồi rồi về lại nơi xuất phát. Bên cạnh đó, những vấn
đề lớn của đất nước thì thường bị dán nhãn “nhạy cảm” và được lãnh đạo
Đảng các cấp “định hướng” hay “quán triệt” cho các “đại biểu nhân dân”.
Bởi thế cho nên giữa lúc bao vấn đề cấp thiết của đất nước đang nổi lên
cùng với nhiều bức xúc của dư luận (vụ Tiên Lãng, lạm phát, suy thoái,
hiện tượng xe máy cháy hàng loạt, v.v.) mà chẳng thấy tiếng nói của Quốc
hội ở đâu thì việc một vị Phó Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội lên tiếng gần
như tức thời trước bức thư “cầu cứu” của một cô bé 15 tuổi trong
cuộc thi trên truyền hình mang tên “Vietnam’s Got Talent” lại càng dễ
khiến người ta cảm thấy sao mà lạc lõng và bi hài, để rồi cả nước lại
được một phen bàn ra tán vào. Chợt nhớ câu thơ của thi sĩ Tản Đà hồi đầu
thế kỷ trước:
Dân hai lăm triệu ai người lớn
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.
Xem ra ở Việt Nam không chỉ “cử tri” mà ngay cả “Đại biểu Quốc hội”
tại “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” cũng “biết thân biết phận” của
mình. Thôi thì lo chuyện trẻ con cũng là một phận sự cao cả ở đời vậy,
nhất là ở cái đất nước “bốn nghìn năm vẫn trẻ con” này thì còn có khối
chuyện kiểu như thế. Những chuyện “quốc gia đại sự” khác thì đã có lãnh
đạo Đảng và “bạn” lo hết cho rồi còn gì: nào là phải
quán triệt “ba kiên trì” (kiên trì hiệp thương hữu nghị, kiên trì
nhìn vào đại cục, kiên trì bình đẳng cùng có lợi) như “bạn” đã phán này,
nào là không
để bị “Tây hoá”, “tha hoá” và “thoái hoá” như “bạn” đã dạy này… Ôi
ViệtNam, bao giờ Người mới lớn nổi đây?!./.
L. A. H.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.