GS Nguyễn Văn Tuấn
Quan sát các vị đi sứ và các vị chính khách ở VN ra nước ngoài tôi có cảm tưởng họ thiếu một kĩ năng quan trọng mà tiếng Anh gọi là communication skills. Tôi chưa biết dịch chữ này sang tiếng Việt như thế nào, nhưng theo cách hiểu bằng tiếng Anh, “communication skills” không chỉ đơn giản là nói và viết mà còn kĩ năng biện luận. Các chính khách VN hình như thiếu kĩ năng tranh luận và hùng biện.
Không biết ngoài xã hội thì sao, nhưng tôi thấy cư dân mạng bàn tán
khá nhiều về chuyến đi của ngài đặc phái viên Lê Hồng Anh sang Tàu.
Không phải bàn về nội dung thảo luận trong chuyến thăm, nhưng về hành
động ông cầm tờ giấy đọc trong buổi tiếp kiến với Tập Cận Bình. Thật ra,
nhìn kĩ thì sẽ thấy ngài đặc phái viên còn có một sấp giấy để một bên
ghế salon. Phải nói rằng trong cái bầu không khí khá thân mật, mà ông
cầm tờ giấy đọc thì bầu không khí trở nên trang nghiêm. Ngay cả hành vi
đọc tự nó làm cho khán giả nghĩ đến các sứ đọc sớ trước thiên tử là kẻ
đang ngồi nghe. Nó làm cho người nghe không còn muốn tranh luận hay trao
đổi cái gì, bởi vì người đang ngồi đối diện chỉ là người đọc những gì
do ai viết ra chứ không phải của chính anh ta. Nếu thế thì mình nên nói
chuyện với tác giả chứ đâu cần nói chuyện với người đưa tin. Nói gì thì
nói, hành động đọc đó không đẹp chút nào.
Nói chung, các chính khách VN đều như ngài đặc phái viên, tức là họ
thường cầm giấy đọc khi tiếp kiến với đối tác ở nước ngoài. Khi ông Phạm
Quang Nghị sang thăm Mĩ, ngoài món quà đầy tai tiếng, chúng ta cũng
thấy ông cầm theo một tờ giấy trắng, chắc ghi chép những gì cần phải
nói. Trước đó, cựu thủ tướng Phan Văn Khải khi sang thăm Mĩ cũng cầm
giấy đọc khi tiếp kiến đối tác ở Nhà Trắng. Cái “truyền thống” cầm giấy
đọc chắc là khà xa xưa. Tôi nhớ có xem một video clip đâu đó khi ông cụ
Hồ trả lời một phỏng vấn, ông cũng cầm giấy đọc. Ngay cả trong nước, Bộ
trưởng GDĐT cũng cầm giấy đọc, mà hình như có khán giả phát hiện ông đọc
nhầm một chỗ!
Tôi không biết các bạn thì sao, chứ với tôi đi dự một hội nghị hay
một buổi tiếp xúc mà “diễn viên chính” cứ cậm cụi đọc tờ giấy nó rất
chán. Chẳng những chán mà còn khó chịu và xúc phạm. Khi người ta cầm tờ
giấy đọc, người ta không chú ý đến mình là khán giả, và thế là gây ra
một khoảng cách tinh thần giữa người đọc và người nghe. Hành vi đọc còn
có thể diễn giải như là một cách xem thường khán giả vì người đó chẳng
quan tâm đến truyền đạt thông tin nữa, và thế là khán giả cảm thấy mất
thì giờ để tham dự buổi họp. Khi người cầm giấy đọc thì lúc đó anh/chị
ta đã tự biến mình thành một reader [người đọc] chứ không phải là một
speaker [người thuyết trình], và như thế thì người đó đã đánh mất vai
trò của mình.
Chuyện ngài đặc sứ cầm giấy đọc làm tôi nhớ đến một kinh nghiệm cá
nhân thời xa xưa. Nhớ lần đầu tôi đi trình bày về một nghiên cứu quan
trọng trong một hội nghị có đến 5000 người tham dự ở Mĩ, thầy tôi rất
quan tâm. Vì biết thầy quan tâm, nên tôi chuẩn bị sẵn một tờ giấy mà tôi
soạn ra tất cả những câu nói, kể cả câu mở đầu ra sao. Trước ngày lên
podium, ông ghé qua phòng khách sạn tôi và bắt buộc tôi phải nói cho ổng
nghe. Tôi loay hoay lấy tờ giấy và mới cầm lên chưa kịp đọc, ổng hỏi
“Mày làm gì vậy?” Tôi nói tỉnh queo là … tôi nói. Ổng đùng đùng nổi giận
nói: “Ngày mai, mày mà cầm tờ giấy đó đọc, thì tao sẽ giết mày, nghe
chưa con!” (Cách nói “I will kill you” là cách nói cho vui, chứ có giết
chóc ai). Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao mấy người khác đọc slide đó, có sao
đâu, tôi không rành tiếng Anh thì tôi cũng đọc. Ổng giải thích ai đọc
thì … “kệ cha” nó, nhưng mày là trò của tao, mày đến từ Viện Garvan, mày
phải có đẳng cấp, chứ đừng bắt chước cái đám linh tinh đó. Ông bồi
thêm: mày đọc như thế là tao mất mặt, mà khán giả còn nghĩ rằng mày chỉ
là cái máy, chứ chẳng biết gì cả. Ông giảng một hồi, rồi nói “thôi được,
mày cứ học thuộc lòng cái mày viết và nói như mày đã viết, nhưng khi
lên podium mày không được cầm giấy”. Từ cái kinh nghiệm trên, sau này
tôi hướng dẫn nghiên cứu sinh tôi đều nhắc là không được cầm giấy nói,
mà phải nói như là một người đang thuyết trình.
Tôi có cảm tưởng là các vị chính khách VN cộng sản kém kĩ năng thông
tin hơn các chính sách cộng hoà. Nhìn qua cách trả lời phóng viên nước
ngoài của các chính khách VN thời nay tôi thấy họ có vẻ không tự nhiên,
không thoải mái, còn ngoại ngữ thì có phần kém hay quá kém. Nhìn cái
‘body language’ (ngôn ngữ cơ thể) chúng ta thấy họ có vẻ như đang chịu
một cực hình. Ngay cả ông cụ Hồ là người lão luyện mà khi trả lời phỏng
vấn của kí giả Pháp ông có lúc lúng túng. Nhưng nhìn qua cách trả lời
phỏng vấn của các nhân vật như cựu TT Nguyễn Văn Thiệu, cựu phó TT
Nguyễn Cao Kỳ, ông Hoàng Đức Nhã, v.v. chúng ta thấy họ nói chuyện với
phóng viên nước ngoài rất thoải mái, tiếng Anh và tiếng Pháp lưu loát,
và họ xuất hiện một cách tự tin về những gì họ phát biểu. Họ có vẻ biết
“luật chơi” và văn hoá phương Tây nên thỉnh thoảng còn chơi chữ với
phóng viên.
Tôi nghĩ một phần của sự khác biệt giữa chính khách ngày nay và thời
VNCH là trình độ. Thời đó, các vị ấy đều học đàng hoàng, thi cử nghiêm
chỉnh, chứ không phải bát nháo như hiện nay. Do đó, các chính khách VNCH
đều là những người có thực học, từng xuất dương du học, đã học ngoại
ngữ từ lúc ở VN, và khi ra ngoài học một thời gian họ có thể giỏi ngoại
ngữ gần như người bản xứ. Còn ngày nay, dù các chính khách có rất nhiều
người có bằng tiến sĩ và ngoại ngữ nhưng chẳng ai biết thực học của họ
ra sao, chỉ đến khi tiếp xúc với người nước ngoài thì sự thật mới hiện
ra.
Một phần khác nữa tôi nghĩ có thể là do “tổ chức”. Chính khách VN
trước khi ra ngoài họp chắc chắn đã được dặn phải nói cái gì và không
nên nói cái gì. Do đó, cho dù họ có chính kiến, họ cũng không dám bước
ra khỏi cái hộp của tổ chức vì trên đầu họ còn lơ lửng cái vòng kim cô ý
thức hệ. Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong các hội nghị
quốc tế, các chính khách VN rất ít nói, trong khi đó chính khách các
nước trong vùng như Thái Lan, Mã Lai và Phi Luật Tân thì họ nói như …
két. Kể ra sự tiết kiệm lời nói như thế cũng gây ảnh hưởng đến hình ảnh
của đất nước và con người VN. VN hay nói đến “hội nhập quốc tế”, nhưng
trong thực tế thì các chính khách và quan chức chưa thể hiện sự hội nhập
quốc tế chút nào.
Tôi nghĩ một phần khác có lẽ là do giáo dục. Chúng ta lớn lên với nền
giáo dục nửa phong kiến, nửa hiện đại. Học trò không được khuyến khích
có chính kiến riêng và không được học kĩ năng tranh luận. Rồi khi lớn
lên một số bị cái guồng máy đoàn – đảng nhào nặn thành một con người
khác chứ không phải là chính mình nữa. Nói cái gì cũng phải theo lập
trường chính trị, chủ trương tập thể, và cái cá nhân bị đè bẹp trong môi
trường đó. Ngược lại, một trong những kĩ năng quan trọng mà hệ thống
giáo dục ở các nước phương Tây như Mĩ và Úc rất quan tâm là rèn luyện kĩ
năng communication và khuyến khích có chính kiến riêng. Học trò tiểu
học đã được khuyến khích tranh luận các vấn đề xã hội. Có trường sáng
tạo bằng cách chia lớp học ra hai đảng, một đảng cầm quyền và một đảng
đối lập, và học trò giả bộ làm đại biểu hai bên để tranh luận về một vấn
đề thời sự. Đến khi lên trung học và đại học, các em đã quen với phát
biểu chính kiến, và cảm thấy thoải mái với thói quen đó. Do đó, khi
trưởng thành họ đã quá quen với văn hoá tranh luận.
Tôi nghĩ các chính khách VN rất cần kĩ năng communication, kể cả kĩ
năng nói và thuyết phục đối tác. Họ cần phải học chứ không thể tự nhiên
mà có được. Nhưng không phải học từ Bộ Ngoại giao vì chính những người
trong Bộ Ngoại giao cũng có vấn đề về kĩ năng communication. Họ nên học
kĩ năng communication từ các chuyên gia từ phương Tây, đặc biệt là Mĩ.
Chỉ khi nào các chính khách xuất hiện trong hội họp nước ngoài không còn
cầm tờ giấy thì lúc đó công chúng mới an tâm.