Phạm Thị Hoài
Trong phóng sự Vẽ nhọ bôi hề [1], điều tra về các rạp hát và
đời đào kép, Vũ Trọng Phụng kể chuyện một nhà hát ở ta đã „ném sang
Tàu“ hàng bạc vạn để mua trang phục, khí giới biểu diễn.
Nhà hát giải thích: „Làm thế nào được! Chúng tôi vẫn muốn thửa tại
các cửa hiệu của người mình lắm chứ… Nhưng đồ đã đắt mà lại chóng hỏng,
chúng tôi cứ nghĩ mãi đến đồng bào thì để rạp hát đóng cửa ư? Một đôi
hia của Tàu, giá hai chục bạc, không kể thêu đẹp, dùng được đến hai năm.
Một đôi hia thửa của ta, cũng ngần ấy tiền, đã không được đẹp thì thôi,
lại dùng chưa quá một năm đã hỏng! Hai nữa, thợ ta không biết pha màu.
Người Tàu không bao giờ họ lại dùng những chỉ: đen, đỏ thẫm, vàng ệch
với xanh lơ để thêu một cái áo. Cái áo lụa xanh da giời thì phải những
hoa xanh thẫm với những ngân tuyến điểm tô cho. Họ không chịu để cho đồ
thêu những màu gay gắt. Còn người mình… thì thôi!“ Ông này, sau khi thử
thách tác giả, cho đoán thử hai cái mũ, cái nào của ta cái nào của Tàu,
kết luận: „Nếu ông chỉ trông thấy xấu cũng đủ nhận được người thợ làm đồ
thì đừng vội vàng trách chúng tôi. Mĩ thuật của người Việt Nam dễ nhận
ra vì… vì trông nó xấu!“
Đó là 1934, tròn 80 năm trước, Pháp thuộc chứ không phải Bắc thuộc,
“Pháp-Việt đề huề” chứ không phải mười sáu chữ vàng Việt-Trung, song
ngôi trên của văn hóa Trung Hoa vẫn thấm vào tận đường kim mũi chỉ trên
xống áo đào kép. Ghét lắm nhưng không bỏ được. Ngày nay người Việt chê
Tàu kém chất lượng. Bõ ghét được vài phút, song ở Việt Nam mĩ thuật
Trung Hoa vẫn thống trị từ trong nhà ra ngoài đường.
*
Vẫn theo Vũ Trọng Phụng trong phóng sự nói trên, bản thân cái nghệ
thuật sâu khấu ấy là „một sự sáng kiến của Trung Quốc, làm quen với dân
mình vào hồi Đức Trần Hưng Đạo đánh đuổi quân Nguyên. Trong đám tù binh
Tàu có tên lính Lý Nguyên Cát trong ngục cũng vẫn hát hỏng cho tù binh
khác khuây khỏa nỗi lo buồn – việc làm tiêu thời giờ trong lúc ưu nhàn
bất đắc dĩ. Thấy sự lạ, lính canh tù bẩm lên quan trên. Người ta hỏi Lý
Nguyên Cát, y cắt nghĩa hết. Theo lệnh của Đức Trần Hưng Đạo, Lý Nguyên
Cát bèn diễn một tấn tuồng do y soạn ra. ‚ Vương Mẫu hiến đào‘ là tấn
tuồng trước tiên diễn trên mặt đất của Đức Đại Việt Hoàng đế, kép hát
gồm 12 người, nam ban đóng giả nữ ban. Họ mặc áo gấm vóc, múa hát theo
điệu đàn sáo, kèn, trống thành hẳn một khúc âm nhạc có tiết tấu và theo
tích hát có thể khiến người „Ố Nàm“ mình phải vui mừng giận ghét hẳn
hoi. Sau buổi diễn, Lý Nguyên Cát với 12 tù binh kia nghiễm nhiên trở
nên những ông giáo sư dạy tuồng! Đến đời Trần Dụ Tông, các khanh tướng
vương hầu nhận thấy chiếu của Vua truyền soạn tích hát. Rồi từ đó trở
đi, những buổi dạ yến đều có tiếng trống kèn vang lừng hoàng cung.“
Thuở ấy mà Đức Thánh Trần quyết liệt tảy chay sản phẩm Trung Quốc
hay chống xâm lăng văn hóa thì ngày nay người Việt đã không có những
dòng âm nhạc và sân khấu âm nhạc được coi là văn hóa truyền thống của
mình, từ hát bội đến nhã nhạc cung đình, từ nhạc tài tử đến cải lương và
vọng cổ. Song Ngài có tư thế để cởi mở, để liberal như vậy, Ngài ba lần đánh tan quân Nguyên Mông, đứng trên mọi nghi ngờ quỳ gối trước phương Bắc.
© 2014 pro&contra
________________________
[1] Vũ Trọng Phụng. Vẽ nhọ bôi hề – Những tác phẩm mới tìm thấy năm 2000. Peter Zinoman sưu tầm. Lại Nguyên Ân giới thiệu và chú thích. Nxb Hội Nhà văn và Công ty Văn hóa Phương Nam. 2004.