Trong khi chúng ta đang chuẩn bị đón xuân sang thì
trong nhà tù Việt Cộng có một người tù thầm lặng, hiện đang mang bản án
chung thân, phải chuẩn bị đón cái Tết thứ 20 trong ngục tù.
Ông là Trần Tư, nay đã 72 tuổi, một người tù chính trị thuộc Liên Đảng
Cách Mạng Việt Nam, bị bắt năm 1993 với tội danh “âm mưu lật đổ chính
quyền” và nhận bản án chung thân.
Trường hợp của ông Trần tư là một trường hợp khá đặc biệt. Cũng giống như ông Lý Tống, ông Trần Tư đã vượt biên, định cư tại Mỹ nhưng sau đó lại về Việt Nam hoạt động và bị cầm tù. Tuy nhiên có sự khác biệt và kém may mắn ở chỗ là ông Trần Tư chỉ có thẻ thường trú chứ chưa là công dân Hoa Kỳ, cho nên không nhận được sự giúp đỡ của lãnh sự Hoa Kỳ.
Trường hợp của ông Trần tư là một trường hợp khá đặc biệt. Cũng giống như ông Lý Tống, ông Trần Tư đã vượt biên, định cư tại Mỹ nhưng sau đó lại về Việt Nam hoạt động và bị cầm tù. Tuy nhiên có sự khác biệt và kém may mắn ở chỗ là ông Trần Tư chỉ có thẻ thường trú chứ chưa là công dân Hoa Kỳ, cho nên không nhận được sự giúp đỡ của lãnh sự Hoa Kỳ.
Vài nét về ông Trần Tư
Ông Trần Tư người gốc Quảng Bình, nhưng sinh trưởng tại Tân Mỹ, Thừa Thiên-Huế. Học trường sinh ngữ quân đội và năm 1966 ra trường với cấp bậc Hạ sĩ quan Thông dịch viên. Từ năm 1966 – 1973, ông lần lượt đóng quân tại các căn cứ Chu Lai, Cam Ranh, Đà Nẵng với chức vụ Hạ sĩ quan Thông dịch viên cho Lực lượng Đặc biệt Mỹ. Từ 1973 đến tháng 4/1975, ông làm việc tại Hải quân Công xưởng với chức vụ trưởng kho 7.
Ông Trần Tư người gốc Quảng Bình, nhưng sinh trưởng tại Tân Mỹ, Thừa Thiên-Huế. Học trường sinh ngữ quân đội và năm 1966 ra trường với cấp bậc Hạ sĩ quan Thông dịch viên. Từ năm 1966 – 1973, ông lần lượt đóng quân tại các căn cứ Chu Lai, Cam Ranh, Đà Nẵng với chức vụ Hạ sĩ quan Thông dịch viên cho Lực lượng Đặc biệt Mỹ. Từ 1973 đến tháng 4/1975, ông làm việc tại Hải quân Công xưởng với chức vụ trưởng kho 7.
Vượt biên và tỵ nạn ở Hoa Kỳ
Sau tháng 4/1975, ông bị bắt đi tù cải tạo 2 năm tại Minh Hải. Ngay sau khi ra tù, ông đã tìm đường vượt biển nhưng bất thành và bị bắt ở tù từ năm 1977 đến 1982.
Vài năm sau đó, ông tiếp tục vượt biển lần nữa và thành công, đến tỵ nạn tại Thái Lan vào giữa năm 1987. Trong thời gian tạm cư trên đất Thái, ông làm việc trong tư cách là thông dịch viên, và chuyên giúp tư vấn, giúp đỡ các trẻ em minor, các cô gái Việt bị nạn trên biển. Khi được chuyển tiếp sang tạm cư tại Phi, ông dạy học cho người tỵ nạn ở trung tâm PRPC Bataan Philippine. Sau 18 tháng tạm cư trên đất Thái, ông đi định cư tại Hoa Kỳ vào cuối năm 1988. Đây có lẽ cũng là quãng thời gian ông manh nha ý tưởng hoạt động chính trị để cứu quốc. Sau khi định tại Hoa Kỳ, trong một bức thư gởi về cho gia đình từ Fullerton, California đề ngày 15/12/1988, ông viết:
Sau tháng 4/1975, ông bị bắt đi tù cải tạo 2 năm tại Minh Hải. Ngay sau khi ra tù, ông đã tìm đường vượt biển nhưng bất thành và bị bắt ở tù từ năm 1977 đến 1982.
Vài năm sau đó, ông tiếp tục vượt biển lần nữa và thành công, đến tỵ nạn tại Thái Lan vào giữa năm 1987. Trong thời gian tạm cư trên đất Thái, ông làm việc trong tư cách là thông dịch viên, và chuyên giúp tư vấn, giúp đỡ các trẻ em minor, các cô gái Việt bị nạn trên biển. Khi được chuyển tiếp sang tạm cư tại Phi, ông dạy học cho người tỵ nạn ở trung tâm PRPC Bataan Philippine. Sau 18 tháng tạm cư trên đất Thái, ông đi định cư tại Hoa Kỳ vào cuối năm 1988. Đây có lẽ cũng là quãng thời gian ông manh nha ý tưởng hoạt động chính trị để cứu quốc. Sau khi định tại Hoa Kỳ, trong một bức thư gởi về cho gia đình từ Fullerton, California đề ngày 15/12/1988, ông viết:
“Giờ đây Ba không còn được nụ cười
tươi như thời gian đó nữa đâu. Có cười đi chăng nữa chỉ để vui lòng kẻ
khác, vì trong nụ cười còn đượm vẻ chua chát, lo âu, sầu muộn. Chúa đã
trao cho Ba một cây Thánh giá rất khó vác, nhưng Ba tin rằng Ba sẽ vác
nổi, vơi phương tiện Ngài đã ban cho Ba. Xin Chúa chúc lành cho tất cả những kẻ thân yêu của Ba”.
Một thời gian ngắn sau khi ổn định cuộc sống mới, ông mở Văn phòng du lịch ASIA Travel tại Ontario, California.
Trở về Việt Nam hoạt động và bị bắt
Trong thời gian sinh sống tại Hoa Kỳ, ông cùng các đồng chí lập ra tổ chức Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam. Năm 1990, ông quay về Việt Nam hoạt động đồng thời làm việc từ thiện với các tổ chức từ thiện công giáo. Hoạt động từ thiện nổi bật nhất là việc giúp đỡ bệnh nhân tại trại phong Thanh Bình (An Khánh, Quận 2), mà người phụ trách trại phong Thanh Bình khi đó là Linh mục Cosma Hoàng Văn Đạt, đồng thời cũng là chánh xứ Giáo xứ Thiên Thần (Nay Ngài là Giám mục Giáo phận Bắc Ninh).
Trong thời gian sinh sống tại Hoa Kỳ, ông cùng các đồng chí lập ra tổ chức Liên Đảng Cách Mạng Việt Nam. Năm 1990, ông quay về Việt Nam hoạt động đồng thời làm việc từ thiện với các tổ chức từ thiện công giáo. Hoạt động từ thiện nổi bật nhất là việc giúp đỡ bệnh nhân tại trại phong Thanh Bình (An Khánh, Quận 2), mà người phụ trách trại phong Thanh Bình khi đó là Linh mục Cosma Hoàng Văn Đạt, đồng thời cũng là chánh xứ Giáo xứ Thiên Thần (Nay Ngài là Giám mục Giáo phận Bắc Ninh).
Tai họa ập đến và bản án chung thân
Sáng ngày 28/03/1993, tai họa ập đến với ông và cả gia đình tại tư gia ở số 534 An Bình, An Phú, Thủ Đức (nay là số 23 Đường 10, Khu phố 4, Phường An Phú, Quận 2).
Từ sáng sớm, một lực lượng công an khoảng hơn 100 người mặc thường phục, rải đều 2-3 người tại mỗi chốt chặn, kéo dài từ nhà thờ Thiên Thần (600 An Bình, An Phú, Quận 2) vào đến tư gia của gia đình ông. Khoảng trên 20 công an mặc thường phục lẫn sắc phục kéo vào nhà ông, bắt tất cả mọi người trong nhà ngồi úp mặt vào tường, trong khi lực lượng công an tra xét ông và vợ. Sau khi lục xét và lấy đi nhiều vật dụng đồ đạc trong nhà, kể cả một lượng tiền bạc lớn, công an áp tải ông về trại giam.
Liên tục trong vòng một tháng, tất cả thành viên trong gia đình ông không được ra khỏi nhà: nội bất xuất, ngoại bất nhập. Bên trong nhà lúc nào cũng túc trực 3 công an viên. Mọi nhu cầu tiêu dùng đều phải ghi xuống giấy để công an đưa người đi mua.
Ngày ra tòa, ông dõng dạc tuyên bố với chánh án “Tôi làm việc này vì lý tưởng. Tôi không có tội. Hãy thả hết những anh em của tôi ra. Tôi hoàn toàn nhận trách nhiệm”.
Sáng ngày 28/03/1993, tai họa ập đến với ông và cả gia đình tại tư gia ở số 534 An Bình, An Phú, Thủ Đức (nay là số 23 Đường 10, Khu phố 4, Phường An Phú, Quận 2).
Từ sáng sớm, một lực lượng công an khoảng hơn 100 người mặc thường phục, rải đều 2-3 người tại mỗi chốt chặn, kéo dài từ nhà thờ Thiên Thần (600 An Bình, An Phú, Quận 2) vào đến tư gia của gia đình ông. Khoảng trên 20 công an mặc thường phục lẫn sắc phục kéo vào nhà ông, bắt tất cả mọi người trong nhà ngồi úp mặt vào tường, trong khi lực lượng công an tra xét ông và vợ. Sau khi lục xét và lấy đi nhiều vật dụng đồ đạc trong nhà, kể cả một lượng tiền bạc lớn, công an áp tải ông về trại giam.
Liên tục trong vòng một tháng, tất cả thành viên trong gia đình ông không được ra khỏi nhà: nội bất xuất, ngoại bất nhập. Bên trong nhà lúc nào cũng túc trực 3 công an viên. Mọi nhu cầu tiêu dùng đều phải ghi xuống giấy để công an đưa người đi mua.
Ngày ra tòa, ông dõng dạc tuyên bố với chánh án “Tôi làm việc này vì lý tưởng. Tôi không có tội. Hãy thả hết những anh em của tôi ra. Tôi hoàn toàn nhận trách nhiệm”.
Quãng thời gian bị cầm tù
Trong thời gian bị giam giữ, ông lần lượt bị chuyển từ trại tù Nguyễn Văn Cừ (Sài Gòn), đến trại Trại A-20 Xuân Phước, Phú Khánh (nay là tỉnh Phú Yên). Sau khi gia đình thăm nuôi tại trại Xuân Phước, được 3 tháng thì ông bị chuyển ra Bắc đến trại Ba Sao Nam Hà.
Trong thời gian bị giam giữ, ông lần lượt bị chuyển từ trại tù Nguyễn Văn Cừ (Sài Gòn), đến trại Trại A-20 Xuân Phước, Phú Khánh (nay là tỉnh Phú Yên). Sau khi gia đình thăm nuôi tại trại Xuân Phước, được 3 tháng thì ông bị chuyển ra Bắc đến trại Ba Sao Nam Hà.
Ông là một thành viên trong nhóm 5 người tù cùng bị chuyển một lượt
từ trại Xuân Phước ra Ba Sao năm 1994: Lý Tống, Trần Tư, Đoàn Viết Hoạt,
Jimmy Trần (Trần Mạnh Quỳnh) và A Quý.
Trại giam Ba Sao Nam Hà nối tiếng là trại giam khắc nghiệt. Tại trại giam này ông cùng với 3 người tù nổi tiếng Lý Tống, Đoàn Viết Hoạt và Trần Mạnh Quỳnh viết kháng thư về chế độ giam giữ tù nhân (xem nội dung bản kháng thư đính kèm bên dưới), mà đoạn kết có lời như sau: “Từ trại giam Nam Hà chúng tôi đã quyết định gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì cho rằng, sau khi đã trực tiếp biết được những gì đang xẩy ra trong các trại giam mà chúng tôi đã đi qua, chúng tôi không thể tự nhận mình là những con người tự trọng, trung thực, thiết tha với tiền đồ của dân tộc mà không nói lên những nhận xét, quan điểm và kiến nghị của mình. Chúng tôi thẳng thắn gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì tin rằng công lý sẽ thắng, nền dân chủ pháp trị sẽ được xây dựng trên đất nước chúng ta; rằng tinh thần nhân đạo, lòng nhân ái trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt sẽ vượt hẳn mọi bất công, lạc hậu và hận thù để tạo ra một không khí chính trị xã hội Đại Phản Tỉnh và Đại Hòa Dân Tộc để mở đường cho việc xây dựng một nước Việt phồn vinh, hạnh phúc và tự do trong thời đại 2000”.
Trại giam Ba Sao Nam Hà nối tiếng là trại giam khắc nghiệt. Tại trại giam này ông cùng với 3 người tù nổi tiếng Lý Tống, Đoàn Viết Hoạt và Trần Mạnh Quỳnh viết kháng thư về chế độ giam giữ tù nhân (xem nội dung bản kháng thư đính kèm bên dưới), mà đoạn kết có lời như sau: “Từ trại giam Nam Hà chúng tôi đã quyết định gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì cho rằng, sau khi đã trực tiếp biết được những gì đang xẩy ra trong các trại giam mà chúng tôi đã đi qua, chúng tôi không thể tự nhận mình là những con người tự trọng, trung thực, thiết tha với tiền đồ của dân tộc mà không nói lên những nhận xét, quan điểm và kiến nghị của mình. Chúng tôi thẳng thắn gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì tin rằng công lý sẽ thắng, nền dân chủ pháp trị sẽ được xây dựng trên đất nước chúng ta; rằng tinh thần nhân đạo, lòng nhân ái trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt sẽ vượt hẳn mọi bất công, lạc hậu và hận thù để tạo ra một không khí chính trị xã hội Đại Phản Tỉnh và Đại Hòa Dân Tộc để mở đường cho việc xây dựng một nước Việt phồn vinh, hạnh phúc và tự do trong thời đại 2000”.
Theo lời mô tả của ông Lý Tống và các bạn đồng tù khác, trong tù ông Trần Tư là người điềm đạm, rất “an nhiên tự tại”
và có bản lãnh, suốt ngày ngồi tập Yoga, tập thể dục để giữ gìn sức
khỏe. Tuy nhiên, do điều kiện trại giam và chế độ ăn uống thiếu thốn, đã
khiến ông rụng hết hàm răng. Người nhà phải bỏ tiền ra, xin phép trại
giam cho ông làm răng giả để tiện việc ăn uống.
Ngoài những tù chính trị đã mất gần đây như các ông Nguyễn Văn Trại,
Trương Văn Sương, và người tù chính trị xuyên thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu hiện
còn trong lao lý, thì có lẽ hiện nay ông Trần Tư là người tù chính trị
lâu năm duy nhất còn sống sót đang thọ án trong nhà tù cộng sản.
Vì chưa phải là công dân Hoa Kỳ, nên suốt thời gian ông ở tù, không
có một sự can thiệp nào từ Lãnh sự Hoa Kỳ, kể cả sự lên tiếng của các tổ
chức, đảng phái có liên hệ. Vì luôn hoạt động âm thầm nên ông không
được công chúng và báo chí biết đến.
Vào cái tuổi 72, với bản án chung thân cho tội danh “Âm mưu lật đổ
chính quyền”, ông đã khắc khoải gần 20 năm tù, lê lết qua nhiều trại tù
khắc nghiệt. Nay với hàm răng đã rụng hết, sức khỏe không còn khả quan
vì chế độ ăn uống thiếu thốn, khiến ông có thể gục ngã bất cứ lúc nào.
Vì sự quên lãng của mọi người mà ông phải âm thầm chịu đựng sự giam
cầm khắc nghiệt sau song sắt trong suốt 20 năm qua. Cũng như các ông
Nguyễn Văn Trại, Trương Văn Sương, mặc dầu ông Trần Tư tuy có đầy nghị
lực nhưng liệu có đủ sức khỏe để theo hết kiếp tù đày với bản án chung
thân không?
20 năm là một quãng thời gian quá dài và quá lâu cho một sự quên lãng. Chúng ta hãy cùng nhau lên tiếng trước khi quá muộn màng vì sự hối tiếc không thể cứu được người con yêu nước Trần Tư.
20 năm là một quãng thời gian quá dài và quá lâu cho một sự quên lãng. Chúng ta hãy cùng nhau lên tiếng trước khi quá muộn màng vì sự hối tiếc không thể cứu được người con yêu nước Trần Tư.
Xuân Quý Tỵ 2013
© Lê Minh
© Lê Minh
THƯ KHÁNG NGHỊ VỀ CHẾ ĐỘ GIAM GIỮ PHẠM NHÂN HIỆN NAY
Trại Nam Hà, ngày 1.4.1994
Kính gửi: Thủ Tướng Chính Phủ
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Đồng Kính Gửi:
– Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao
– Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ
(Nhờ Ban Giám Thị Trại Ba Sao, Nam Hà, chuyển giao)
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Đồng Kính Gửi:
– Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao
– Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ
(Nhờ Ban Giám Thị Trại Ba Sao, Nam Hà, chuyển giao)
Thưa Quí Vị,
Chúng tôi ký tên dười đây là Đoàn Viết Hoạt, Trần Tư, Lý Tống và Trần Mạnh Quỳnh hiện đang bị giam giữ tại trại giam Ba Sao, Nam Hà. Sau khi đã trải qua nhiều trại giam khác nhau từ Nam ra Bắc (Chí Hòa, Thủ Đức Z30D, Xuân Phước, Nam Hà) chúng tôi nhận thấy chế độ giam giữ phạm nhân hiện nay có nhiều điều không phù hợp các công ước quốc tế về quyền con người, các công pháp và tập tục luật pháp quốc tế, và ngay cả luật pháp Việt Nam hiện nay. Chúng tôi xin gửi đến Quí Vị kháng thư này liên quan đến những vi phạm mà chúng tôi đã thực tế trải qua hoặc trực tiếp biết được.
Chúng tôi ký tên dười đây là Đoàn Viết Hoạt, Trần Tư, Lý Tống và Trần Mạnh Quỳnh hiện đang bị giam giữ tại trại giam Ba Sao, Nam Hà. Sau khi đã trải qua nhiều trại giam khác nhau từ Nam ra Bắc (Chí Hòa, Thủ Đức Z30D, Xuân Phước, Nam Hà) chúng tôi nhận thấy chế độ giam giữ phạm nhân hiện nay có nhiều điều không phù hợp các công ước quốc tế về quyền con người, các công pháp và tập tục luật pháp quốc tế, và ngay cả luật pháp Việt Nam hiện nay. Chúng tôi xin gửi đến Quí Vị kháng thư này liên quan đến những vi phạm mà chúng tôi đã thực tế trải qua hoặc trực tiếp biết được.
A. Về Chế Độ Giam Giữ và Sinh Hoạt
1. Phạm nhân thuộc mọi thành phần xã hội (tu sĩ tôn giáo, trí thức,
công chức nhà nước, các thành phần “xã hội đen”…) và mọi tội phạm khác
nhau (hình sự, kinh tế, chính trị…) đều bị giam chung và chịu những hình
thức sinh hoạt ăn ở, lao động như nhau. Điều này xẩy ra ở hầu hết các
trại giam. Chế độ giam giữ này đã dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực cho quá
trính cải tạo của các phạm nhân; nhân phẩm, đạo đức và phong cách sống
văn minh, có văn hóa không những không được phát huy mà còn bị thoái
hóa. Thiểu số những người có nhân cách và phẩm chất sống tốt đẹp bị
“hình sự hóa” bởi sự áp đảo và trấn lột của đa số quen lối sống của “xã
hội đen”.
2. Vì nhà tù có quá đông phạm nhân nên chỗ ăn ở quá chật chội (50cm,
60cm mỗi người), tiêu chuẩn vệ sinh rất thấp, trật tự an tòan trong trại
khó bảo đảm (trộm cắp, đánh lộn, ức hiếp, trấn lột…)
3. Hầu như toàn bộ thời gian giam giữ được dành cho lao động. Các
sinh hoạt vui chơi giải trí, thể dục thể thao, học tập gần như không có,
hoặc nếu có cũng không đáng kể. Ở hầu hết các trại giam nhiều hình thức
vui chơi giải trí và học tập còn bị nghiêm cấm (cấm ca hát, cấm học tập
ngoại ngữ và kể cả văn hóa…)
4. Sức khoẻ phạm nhân không được bảo đảm. Lao động nhiều và năng nhọc
nhưng ăn mặc, ở, nghỉ ngơi dưới mức trung bình. Khi đau ốm, thuốc men
thiếu thốn. Bệnh xá thường chật hẹp thiếu vệ sinh, người bệnh nhẹ bị
nhốt chung với người bị bệnh truyền nhiễm…
5. Quan hệ con người trong trại giam thiếu tình thương và thiếu tính
giáo dục. Ngôn ngữ sử dụng giữa cán bộ và phạm nhân thường thiếu văn hóa
(mày – con, mày – tao, chửi mắng…). Còn nhiều trường hợp cán bộ đánh
đập phạm nhân, có khi bằng cả roi vọt, và bắt phạm nhân phục vụ riêng
cho mình.
B. Việc Tổ Chức Lao Động Cải Tạo
1. Việc bắt buộc mọi phạm nhân không phân biệt tội trạng và án phạt
đều phải lao động tay chân, thường là nặng nhọc, 8 giờ một ngày, có khi
cả chủ nhật, được giải thích là để thi hành pháp lệnh thi hành án mới
ban hành. Chúng tôi cho rằng cần phải xét lại ngay cả cơ sở pháp lý của
việc bắt buộc mọi phạm nhân phải lao động tay chân nặng nhọc trong thời
gian bị giam giữ vì những lý do sau đây:
a. Hiến pháp 1992, điều 71 qui định: “Không một công dân nào bị coi
là có tội khi chưa bị Tòa án xét xử với một bản án có hiệu lực pháp lý”.
Điều này cho thấy chỉ có bản án do tòa án phán quyết mới có giá trị
pháp lý để thi hành. Mọi việc thêm vào án phạt của tòa án dưới bất cứ
hình thức nào và do bất cứ cá nhân hoặc cơ quan nào trong thời giam thi
hành án là hoàn toàn vi phạm tinh thần và nội dung của điều 71 Hiến Pháp
hiện nay.
b. Pháp lệnh thi hành án là một văn bản pháp lý dưới luật, tất nhiên
cũng không thể đi ngược lại tinh thần và nội dung của điều 71 cũng như
các điều khoản khác của Hiến Pháp, đạo luật căn bản của mọi đạo luật.
Nói cách khác, việc qui định các hình thức thi hành án không thể vượt ra
ngoài phán quyết của Tòa án liên quan tới thời gian và hình thức án
phạt. Cụ thể hơn nữa, việc tổ chức lao động, nhất là lao động tay chân
nặng nhọc cho phạm nhân chỉ có thể áp dụng một cách hợp hiến và hợp pháp
đồi với những bản án mà toà án có quy định phạt lao động với những hình
thức cụ thể (lao động nhẹ, lao động khổ sai…).
c. Toà án hiện nay của nước ta chỉ có án phạt tù giam mà chưa qui
định có hay không có lao động, cũng như lao động nhẹ hay lao động khổ
sai. Mọi qui định về lao động dười bất cứ hình thức nào do đó đều không
phù hợp với án lệnh và phán quyết của tòa án hiện nay, và nếu vẫn đem
thi hành thì vừa vi phạm điều 71 của Hiến Pháp hiện nay, vừa vi phạm tập
quán và công pháp quốc tế, và đặc biệt vi phạm các công ước quốc tế về
dân quyền và nhân quyền liên quan tới tòa án, quá trình xét xử và giam
giữ.
2. Hình thức tổ chức lao động và cường độ lao động hiện nay ở các
trại giam mà chúng tôi đã đi qua hoàn toàn thiên nặng về hình phạt và về
hiệu quả kinh tế. Các trại giam thường tính toán thành quả lao động của
phạm nhân như tính toán lời lỗ của một cơ sở kinh doanh sản xuất ngoài
xã hội. Có trại (Nam Hà) đặt hẳn trách nhiệm của phạm nhân là “làm giầu
cho trại”. Thực tế này đã gây ra những hậu quả tai hại như sau:
a. Phạm nhân luôn luôn có ấn tượng là họ bị “bóc lột sức lao động”.
Thêm vào đó, tình trạng ăn ở, sinh hoạt tồi tệ trong trại giam như mô tả
ở trên càng tác động xấu vào quá trình cải tạo của phạm nhân. Chúng tôi
cho rằng hình thức tổ chức lao động cũng như ăn ở như hiện nay ở các
trại giam hoàn toàn không đạt được hiệu quả “cải tạo” như mong muốn.
b. Việc bắt phạm nhân lao động cực nhọc để sinh lời cho trại giam và
đóng góp vào ngân sách quản lý trại giam của chính phủ tạo ra một hình
ảnh không tốt đẹp về nhân quyền và chế độ lao tù của nước ta.
c. Lao động trong thời gian giam giữ chỉ có thể cải tạo khi đem lại
lợi ích cho phạm nhân. Muốn thế, lao động cần gắn liền với huấn nghệ,
học tập nâng cao kiến thức và văn hóa tổng quát, cũng như với một môi
trường sống nhân đạo, thân ái, văn minh và tiến bộ. Điều này đòi hỏi
phải tổ chức lại chế độ lao động học tập đồng thời với việc cải thiện
mạnh mẽ và sâu rộng mọi mặt sinh hoạt của trại giam.
C. Kiến Nghị:
Từ những nhận định trên, chúng tôi kiến nghị với quí vị những điều cụ thể sau đây:
Từ những nhận định trên, chúng tôi kiến nghị với quí vị những điều cụ thể sau đây:
1. Thành lập một Ủy Ban Quốc Gia thanh sát các trại giam. Ủy Ban này
phải hoàn toàn độc lập với các cơ quan liên hệ tới việc tổ chức và điều
hành các trại giam, đặt trực thuộc Quốc hội hay Thủ Tướng để thanh tra
tất cả các trại giam, đồng thời nghiên cứu và đề nghị các biện pháp cải
thiện chế độ lao tù.
2. Rà soát lại các văn bản pháp lý liên quan tới mọi khía cạïnh của
việc tổ chức và quản lý các trại giam cũng như việc thi hành án phạt của
tòa án. Sửa đổi mọi điều vi phạm tinh thần và nội dung Hiếp Pháp hiện
hành.
3. Trong khi chờ đợi, cải thiện ngay một số điều liên quan tới lao
động và sinh hoạt trong các trại giam để giảm bớt một số mặt tiêu cực và
tăng cường tác dụng cải tạo của quá trình giam giữ. Chúng tôi đề nghị
cụ thể:
- bỏ mọi hình thức lao động nặng nhọc, giảm bớt giờ lao động;
- tổ chức các lớp học tập văn hóa, ngoại ngữ, nghề nghiệp;
- tổ chức các hình thức sinh hoạt giải trí, văn nghệ, thể dục thể thao;
- tận dụng khả năng và nhân lực của chính phạm nhân để tổ chức các loại sinh hoạt này.
- bỏ mọi hình thức lao động nặng nhọc, giảm bớt giờ lao động;
- tổ chức các lớp học tập văn hóa, ngoại ngữ, nghề nghiệp;
- tổ chức các hình thức sinh hoạt giải trí, văn nghệ, thể dục thể thao;
- tận dụng khả năng và nhân lực của chính phạm nhân để tổ chức các loại sinh hoạt này.
4. Riêng phần chúng tôi, kể từ ngày gửi thư kháng nghị này, chúng tôi sẽ ngưng mọi hình thức lao động chân tay vì lý do như sau:
a. Trong tinh thần và nội dung của bản kháng nghị này, việc ngưng
tham gia mọi hình thức lao động chân tay vừa thể hiện tính trung thực
của những nhận xét, quan điểm và kiến nghị mà chúng tôi đã trình bầy ở
trên, vừa là một đóng góp cụ thể vào quá trình cải thiện chế độ lao tù ở
nước ta hiện nay.
b. Vấn đề “cải tạo”, đặc biệt cải tạo qua hình thức lao động chân
tay, hoàn toàn không phù hợp với trường hợp chúng tôi là những người
đang bị giam giữ với lý do chính trị. Vấn đề đúng sai của tư tưởng và
quan điểm chính trị không thể giải quyết đơn thuần bằng quá trình gọi là
“lao động cải tạo”.
c. Chúng tôi cho rằng các hình thức lao động tay chân hoàn toàn không
phù hợp vơi tình trạng sức khỏe thể xác cũng như năng lực tinh thần và
trình độ văn hóa của chúng tôi. Chúng tôi tn rằng trong thời gian còn
tạm thời bị “cách ly khỏi xã hội” chúng tôi vẫn có thể đóng góp hoặc
chuẩn bị cho sự đóng góp trong tương lai một cách tích cực hơn, hữu hiệu
hơn vào quá trình đi lên của đất nước bằng năng lực và hiểu biết của
mình hơn là bằng các hình thức lao động bằng chân tay giản đơn và nặng
nhọc.
Thưa Quí Vị,
Từ trại giam Nam Hà chúng tôi đã quyết định gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì cho rằng, sau khi đã trực tiếp biết được những gì đang xẩy ra trong các trại giam mà chúng tôi đã đi qua, chúng tôi không thể tự nhận mình là những con người tự trọng, trung thực, thiết tha với tiền đồ của dân tộc mà không nói lên những nhận xét, quan điểm và kiến nghị của mình. Chúng tôi thẳng thắn gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì tin rằng công lý sẽ thắng, nền dân chủ pháp trị sẽ được xây dựng trên đất nước chúng ta; rằng tinh thần nhân đạo, lòng nhân ái trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt sẽ vượt hẳn mọi bất công, lạc hậu và hận thù để tạo ra một không khí chính trị xã hội Đại Phản Tỉnh và Đại Hòa Dân Tộc để mở đường cho việc xây dựng một nước Việt phồn vinh, hạnh phúc và tự do trong thời đại 2000.
Từ trại giam Nam Hà chúng tôi đã quyết định gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì cho rằng, sau khi đã trực tiếp biết được những gì đang xẩy ra trong các trại giam mà chúng tôi đã đi qua, chúng tôi không thể tự nhận mình là những con người tự trọng, trung thực, thiết tha với tiền đồ của dân tộc mà không nói lên những nhận xét, quan điểm và kiến nghị của mình. Chúng tôi thẳng thắn gửi đến Quí Vị thư kháng nghị này vì tin rằng công lý sẽ thắng, nền dân chủ pháp trị sẽ được xây dựng trên đất nước chúng ta; rằng tinh thần nhân đạo, lòng nhân ái trong truyền thống văn hóa dân tộc Việt sẽ vượt hẳn mọi bất công, lạc hậu và hận thù để tạo ra một không khí chính trị xã hội Đại Phản Tỉnh và Đại Hòa Dân Tộc để mở đường cho việc xây dựng một nước Việt phồn vinh, hạnh phúc và tự do trong thời đại 2000.
Trân trọng kính chào Quí vị.
Đồng ký tên
Đoàn Viết Hoạt – Trần Tư
Lý Tống – Jimmy Trần (Trần Mạnh Quỳnh)