GS Nguyễn Tiến Dũng
Bài viết tóm tắt này nhằm tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến chế độ
độc tài Pinochet ở Chile trong giai đoạn 1973-1990, và việc nước này ra
khỏi chế độ độc tài trở thành nước dân chủ và phát triển ra sao.
Bối cảnh dẫn đến độc tài
Cho đến cuối năm 1970, nước Chile là một nước cộng hòa thanh bình ở
châu Mỹ La Tinh, với nền kinh tế phát triển khá ổn định, đạt mức thu
nhập bình quân đầu người gần 5000USD/năm (tính theo PPP, giá USD của năm
2000) vào cuối năm 1970.
Trong cuộc bầu cử tổng thống Chile vào năm 1970, có 3 ứng cử viên chính là ông Salvador Allende của liên minh cánh tả mang tên Unidad Polupar (Nhân Dân Thống Nhất), ông Jorge Alessandri của đảng cánh hữu mang tên Partido Nacional (Quốc Dân Đảng), và ông Radomiro Tomic của đảng Partido Demócrata Cristiano
(Đảng Dân chủ Công giáo). Ông Allende được 36,6% số phiếu, ông
Alessandri được 35,3%, còn ông Tomic chỉ được 28,1%. Vì không ông nào
được quá bán, nên theo Hiến pháp 1925 của Chile, Quốc hội phải chọn giữa
2 ông được nhiều phiếu nhất. Trước đó, vào năm 1958 thì Alessandri và
Allende cũng là hai người được nhiều phiếu nhất, với Alessandri được
31,6% và cao hơn Allende, và Quốc hội đã chọn Alessandri làm tổng thống.
Thông thường ở Chile, Quốc hội chọn người có nhiều phiếu nhất, và lần
này cũng vậy: trong số 200 người của Quốc hội được quyền bỏ phiếu, thì
153 người bầu cho Allende, và Allende trở thành tổng thống.
Đây là lần đầu tiên trong nhiều thập kỷ mà Chile có một tổng thống
cánh tả: ông Allende là một trí thức / bác sĩ thuộc Đảng Xã Hội, theo tư
tưởng Marxist, liên minh với Đảng Cộng Sản, thân với Liên Xô và Cu Ba.
Trong các tài liệu mật của KGB Liên Xô thời đó, thì ông Allende được coi
là một “tài sản” lớn thứ hai sau Fidel Castro ở châu Mỹ La Tinh. Và
Fidel Castro trong thời kỳ Allende nắm quyền đã từng sang thăm Chile
trong vòng 1 tháng liền, và có tặng cho Allende một khẩu súng AK.
Thời đó đang là thời chiến tranh lạnh giữa phe tư bản và phe cộng
sản. Đối với Mỹ, thì Allende là một mối đe dọa, bởi vậy phía Mỹ, thông
qua CIA, tìm mọi cách để cản đường Allende. Họ mua chuộc các nghị sĩ của
Chile để bầu cho Alessandri, với hy vọng là sau đó Alessandri sẽ từ
chức (ông này tuyên bố là nếu được Quốc hội cử làm tổng thống thì cũng
sẽ từ chức) và mở cuộc bầu cử mới và một người khác Allende sẽ trúng cử.
Hai ngày trước khi Quốc hội công bố chính thức Allende thắng cử, xảy ra
cuộc ám sát (do CIA dật giây) tổng chỉ huy quân đội của Chile là ông René Schneider,
vì ông này theo lập trường quân đội không can thiệp vào chính trị: phía
Mỹ hy vọng sẽ có tướng quân đội khác lên sẽ sẵn sàng đảo chính trong
khi Allende làm tổng thống. Tuy nhiên, việc ám sát René Scheider khiến
cho nhiều người bất bình, và lại càng ủng hộ Allende thêm. Ông Carlos Prats được cử làm tổng chỉ huy quân đội kế nhiệm Schneider.
Trong bài phát biểu nhận chức, Allende có nói: “con đường đi đến CNXH
dựa trên dân chủ,đa nguyên và tựdo”. Từ khi lên cầm quyền, Allende đưa
ra một loạt các cải cách kinh tế và xã hội nhằm tiến đến xã hội chủ
nghĩa, như tăng trợ cấp xã hội, và quốc hữu hóa các công ty lớn (mà
trước đó nằm trong tay một số tài phiệt), kiểm soát chặt chẽ giá cả. Các
cải cách này của Allende làm tăng sự hậu thuẫn của những người nghèo
đối với chính phủ: đến năm 1973 thì Unidad Popular tăng được số phiếu
lên thành 44% từ 36% vào năm 1970.
Tuy nhiên, các cải cách kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa theo mô
hình Xô Viết của Allende, tuy đem lại lợi ích cho một bộ phận dân nghèo,
nhưng không thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế, mà trái lại làm cho nền kinh
tế bị suy giảm, và đánh vào tầng lớp trung lưu: sản lượng nông nghiệp
giảm, công suất lao trong ngành công nghiệp chính là ngành khai thác mỏ
giảm hơn 20%, dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, thu nhập bình quân đầu người
giảm hơn 10% trong thời gian 3 năm mà Allende cầm quyền. Điều này khiến
cho đảng Dân Chủ Công Giáo, trước kia liên minh với Unidad Popular của
Allende, nay quay sang liên minh với Quốc Dân Đảng, lập thành một khối
liên minh đối lập chiếm đa số trong quốc hội.
Hình: PDG per capita của Chile, theo wikipedia
Vào năm 1973, cả Quốc hội và Tòa án tối cao đều tuyên bố là Allende
vi hiến, điều hành đất nước theo các mệnh lệnh không tuân thủ hiến pháp,
nhưng Allende “lờ đi” và phản kháng lại rằng những điều Allende làm là
“cách mạng”, là cần thiết cho Chile. Theo wikipedia:
On 26 May 1973, Chile’s Supreme Court unanimously denounced the Allende régime’s disruption of the legality of the nation in its failure to uphold judicial decisions. It refused to permit police execution of judicial resolutions that contradicted the Government’s measures.
In August 1973, a constitutional crisis occurred; the Supreme Court publicly complained about the Allende Government’s inability to enforce the law of the land. On 22 August, the Chamber of Deputies (with the Christian Democrats united with the National Party) accused the Allende Government of unconstitutional acts and called upon the military to enforce constitutional order.
Bản cáo trạng công bố ngày 22/08/1973 của Quốc hội có nêu một loạt
các hành động vi hiến của chính phủ Allende, trong đó có: điều hành theo
các chỉ thỉ không tuân thủ pháp luật, đàn áp bất hợp pháp cuộc bãi công
của thợ mỏ, chiếm đoạt đất hợp pháp 1500 trang trại nộng nghiệp, không
chịu thực hiện các quyết định của tòa án, lạm dụng truyền hình quốc gia,
cho phép những người ủng hộ cánh tả trang bị vũ khí trong khi cấm đoán
điều đó với những người ủng hộ cánh hữu, lờ đi các tuyên bố của Ủy ban
Kiểm soát Trung ương độc lập, v.v..
Quốc hội đã kêu gọi quân đội ra tay để dẹp chính quyền của Allende từ
tháng 8/1973, mở đường cho cuộc đảo chính vào tháng 9/1973, dẫn đến
giai đoạn độc tài.
Vào ngày 29/06/1973, xảy ra một cuộc đảo chính không thành mà về sau được gọi là Tanquetazo
(sự kiện xe tăng): một chỉ huy quân đội dùng xe tăng bao vây tòa nhà
của tổng thống Allende. Tổng chỉ huy quân đội lúc đó là Prats, trung
thành với Allende, đã dẹp được cuộc đảo chính này. Nhưng uy tín của
Prats trong con mắt nhân dân suy giảm sau một vụ bê bối xảy ra ngày
27/06/1973 được các phương tiện truyền thông loan tin (Chile vẫn tự do
về thông tin lúc đó) liên quan đến một phụ nữ có tên là Alejandrina Cox
(ông Prats ngồi xe ô tô ở chỗ kẹt đường, bị người trong xe bên cạnh
nhìn thấy là sỉ vả vì tình hình đất nước tồi tệ, đã mất bình tình xuống
xe cầm súng bắn vào cửa xe kia, bên trong có người lái là bà Cox mà ông
Prats tưởng nhầm là một đàn ông, đám đông xông đến đập xe của ông Prats
và ông Prats phải nhảy lên taxi tẩu thoát rồi xin từ chức nhưng Allende
không chấp nhận cho Prats từ chức). Tiếp đến là vụ các bà vợ của các
tướng lĩnh kéo đến trước cửa nhà của Prats vào ngày 22/08/1973 chửi bới
gọi ông ta là “thằng hèn” vì để cho tình hình an ninh của Chile trở nên
lộn xộn. Đến ngày 23/08/1973 thì Prats từ chức, và tướng Pinochet được bổ nhiệm thay thế làm tổng chỉ huy quân đội.
Đảo chính và độc tài
Vào sáng ngày 11/09/1973 xảy ra đảo chính tại Chile. Toàn bộ lục quân (Pinochet chỉ huy), không quân (do tướng Leigh chỉ huy), hải quân (do tướng Merino chỉ huy, còn thống lĩnh hãi quân lúc đó là tướng Montero bị cắt toàn bộ liên lạc), và cảnh sát (tướng César Mendoza Durán,
thay thế người cầm đầu cảnh sát lúc đó là José María Sepúlveda) đều
tham gia đảo chính. Sépulveda có nhận điện thoại của Allende và đến dinh
tổng thống. Bộ trưởng quốc phòng lúc đó là Orlando Letelier
có nhận điện thoại của Allende và đến bộ quốc phòng, thì bị bắt và trở
thành tù nhân đầu tiên trong cuộc đảo chính. Allende không liên lạc được
với các tướng lĩnh quân sự, và cũng không ngờ rằng hầu hết toàn bộ lực
lượng vũ trang trong đó có cả Pinochet đã chống lại mình. Theo các nhân
chứng trong cuộc, Pinochet mới đầu cũng lưỡng lự khi biết về kế hoạch
đảo chính, sau đó mới tham dự.
Phe đảo chính thương lượng, kêu gọi Allende từ chức tổng thống, nhưng
Allende không chịu. Thân cận của Allende đề nghị Allende bỏ trốn chạy
ra một vùng khác để từ đó làm đảo chính ngược lại, Allende cũng không
chịu, nhất quyết ở lại dinh tổng thống, tin vào chính nghĩa của mình.
Lực lượng bảo vệ Allende ở dinh tổng thống có khoảng 300 lính tinh nhuệ,
gọi là Grupo de Amigos Personales (GAP), nhưng không đọ lại
được phía quân đội có máy bay trực thăng và máy bay ném bom đến yểm trợ.
Kết cục đến đầu giờ chiều, sau khi khoảng 60 người bị chết trong đó chủ
yếu là quân GAP, Allende đã tự sát bằng khẩu súng AK mà Fidel Castro
tặng, và quân GAP đầu hàng.
Sau cuộc đảo chính này, Pinochet được chính quyền quân sự lập lên
thành tổng thống. Viện cớ chống lại mối đe dọa của cộng sản, Pinochet
thiết lập một chế độ độc tài, giải thể quốc hội và các đảng phái chính
trị, lập ra tổ chức mật thám gọi là DINA, và thiết lập một chiến dịch
khủng bổ đối với những người được coi là có “tư tưởng thân cộng”, đặc
biệt là đối với Đảng Cộng Sản.
Các phe thân cộng, trung thành với Allende, đặc biệt là Đảng Cộng
Sản, có tổ chức thành du kích để chống lại chính quyền quân phiệt của
Pinochet. Kết quả là hàng trăng quân lính của chính phủ bị chết, và sự
đàn áp thẳng tay của Pinochet với các du kích quân đó.
Tổng cộng trong giai đoạn độc tài Pinochet, có khoảng 30 nghìn người
bị tù đầy tra tấn vì lý do chính trị, và có khoảng 3000 người bị bắt
chết, ám sát, hay mất tích. Trong đó có những nhân vật nổi tiếng, như
cưu ngoại trưởng của Allende bị ám sát tại Mỹ, cựu tổng chỉ huy quân đội
Prats bị ám sát tại Buenos Aires, và ca sĩ – nhạc sĩ Victor Jara lúc đó là đảng viên cộng sản. (Về sau, có một số thứ được đặt tên Victor Jara để tưởng niệm ông này, trong đó có sân vận động Victor Jara ở Santiago).
Kể cả một số người nước ngoài (Mỹ, Anh, Pháp, …) cũng bị ám sát, thủ
tiêu ở Chile trong thời kỳ độc tài Pinochet. Vì việc này mà một số tướng
lĩnh thời Pinochet sau đó bị Tòa án của Pháp xử tù từ 15 năm cho đến
trung thân. (Nước Pháp không bắt tù được những nhân vật này trên thực
tế, vì họ không đi ra khỏi Chile, nhưng nếu ra khỏi Chile thì sẽ bị
bắt).
Về mặt kinh tế, Pinochet thực hiện chích sách kinh tế “tư bản hoang
dã”, theo đường lối kinh tế của nhóm học giả từ trường Chicago về (gọi
là các “Chicago boys”). Milton Friedman
(nhà kinh tế Chicago được giải Nobel) thì ca ngợi giai đoạn của
Pinochet như là một “miracle” về kinh tế. Tuy nhiên, thực tế không hẳn
như vậy. Chính sách tư bản hoang dã có thể có lợi cho giới tư bản, nhưng
làm cho người nghèo khổ cực đi. Tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khổ
trong giai đoạn Pinochet tăng lên so với giai đoạn Allende. Sau một giai
đoạn phát triển kinh tế từ năm 1975 đến năm 1980, thì Chile lại rơi vào
khủng hoảng tài chính những năm 1981-1982, lao dốc đi xuống, rồi đến
quãng 1987 mới lại trở về ngang bằng mức 1970 về thu nhập trung bình
theo đầu người.
Ra khỏi độc tài
Ngay từ thời điểm ban đầu, chính quyền độc tài quân sự của Pinochet
luôn chỉ có tính chất “tạm thời”, tồn tại như là một giai đoạn chuyển
đổi cho đến khi Chile có được các điều kiện để có được một chính quyền
dân chủ khác “đủ mạnh để chống lại mối đe dọa của công sản”. Nước Chile
là nước có truyền thống dân chủ lâu đời, nên người dân cũng không dễ
dàng chấp nhận một chính quyền quân sự lâu dài. Chính quyền độc tài quân
sự Pinochet, tuy được Mỹ hậu thuẫn, nhưng cũng ngày càng chịu nhiều sức
ép của Mỹ và thế giới hơn về nhân quyền.
Đến năm 1980, một bản hiến pháp mới được thiết lập qua một cuộc trưng
cầu dân ý (plébiscite), làm tiền đề cho quá trình chuyển sang dân chủ.
Theo hiến pháp 1980 này, thì Pinochet được làm tổng thống thêm 8 năm,
rồi đến năm 1988 sẽ trưng cầu dân ý lại xem nhân dân có đồng ý để ứng cử
viên của quân đội (tức là Pinochet) làm tổng thống tiếp 8 năm không.
Các đảng phái “phản động” (tức là như ĐCS) thì bị cấm. Công đoàn cũng bị
hạn chế (không được phép tổ chức ở mức toàn quốc gia).
Tuy bị cấm đoán về mặt lý thuyết, nhưng trên thực tế công đoàn và các
đảng phải hoạt động lại từ những năm 1980. Những người ngày xưa phải
lưu vào nay được phép trở về. Trong đó có bà Michelle Bachelet
mà về sau trở thành tổng thống đầu tiên của Chile. Ông bố của bà là
tướng không quân bị bắt, tra tấn và giết trong thời Pinochet, bà và mẹ
của bà cũng bị bắt, sau đó nhờ quan hệ mà được thả và lưu vong ra nước
ngoài từ năm 1975, rồi đếncuối năm 1979 thì bà lại được quay về Chile
học tiếp ngành y và làm việc.
Trong lần plébiscite thứ hai vào năm 1988, trong sự có mặt của rất
nhiều các quan sát viên quốc tế tại Chile, nhân dân Chile đã bỏ phiếu
thôi tín nhiệm Pinochet, và thế là, như theo thỏa thuận đã định,
Pinochet mất chức tổng thống, vàcuộc bầu cử tổng thống dân chủ đầu tiên
trong vòng gần 2 thập kỷ được tiến hành. Người trúng cử là ông Aylwin của đảng Công giáo Dân chủ, nhận chức từ ngày 11/03/1990, trong khi Pinochet vẫn tiếp tục làm tổng chỉ huy quân đội.
Một trong những lý do khiến cho Pinochet chấp thuận làm theo hiến
pháp, là vào thời điểm đó chiên tranh lạnh đã đến giai đoạn kết thúc, ở
Đông Âu sắp sửa thay đổi chế độ, ở Nga lúc đó cũng là thời kỳ
perestroika và glastnost, không còn lý do “chống thảm họa cộng sản” để
giữ chính quyền độc tài quân sự nữa.
Hậu độc tài
Kể từ năm 1990, các chính phủ mới ở Chile đi theo con đường dân chủ,
hòa hợp hòa giải dân tộc, và phát triển kinh tế cân bằng (kinh tế tư
bản, có sự điều tiết của nhà nước, và có đảm bảo công bằng và phúc lợi
xã hội). Trong hai thập kỷ 1990-1020, Chile là nước phát triển mạnh nhất
ở Mỹ La Tinh, và là nước đầu tiên của Mỹ La Tinh được vào trong tổ chức
OECD (tổ chức của các nước giàu trên thế giới). Hiện tại, thu nhập bình
quân đầu người của Chile đạt khoảng 14,4 nghìn USD/năm, đứng thứ 30
trong số 34 nước của OECD, vượt trên Hungary, Poland, Mexico và Turkey
(xem: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_OECD_countries_by_GDP_per_capita)
Giai đoạn Pinochet được các chính quyền của Chile sau đó thừa nhận như là một giai đoạn độc tài, đen tối trong lịch sử Chile.
Câu hỏi vì sao?
Vì sao Chile chuyển từ dân chủ sang độc tài? Cái này có vẻ
dễ: vì hoàn cảnh lịch sử thế giới (chiến tranh lạnh) mà Chile cũng là
một nạn nhân, và vì chính phủ Allende quá tin tưởng vào chính nghĩa của
mình, mà đã vi hiến khi thực hiện các cải cách theo kiểu Liên Xô, dẫn
đến cả Quốc hội và Tòa án đều buộc tội chính phủ, kêu gọi quân đội can
thiệp, mở đường cho độc tài quân sự. Ngoài ra, còn có thể nói đến các
điểm yếu trong hiến pháp 1925 của Chile, khiến cho xảy ra khủng hoảng
hiến pháp vào năm 1973 mà không có lốt thoát ngoài việc dùng vũ lực.
Quyền hạn của tổng thống quá lớn, đến mức cả Tòa án và Quốc hội đều kêu
là tổng thống vi hiến mà tổng thống vẫn tiếp tục nắm quyền. Trong một
chế độ có thủ tưởng (tổng thống là head of state, còn thủ tướng là head
of governement), khi phe đa số ở Quốc hội thay đổi thì thủ thướng cũng
thay đổi, thì đã không xảy ra khủng hoảng hiến pháp này. Nếu như hiến
pháp nghiêm ngặt hơn trong chuyện bắt thủ tướng phải tuân thủ hiến pháp,
thì Allende đã không thực hiện được các chính sách mà bị Tòa án lên
tiếng là vi hiến (ví dụ như chính sách cải cách ruộng đất, dẫn đến khủng
hoảng về nông nghiệp).
Vì sao quá trình chuyển từ độc tài sang dân chủ ở Chile lại thành công tốt đẹp?
(Không đổ máu; và những năm sau độc tài phát triển rất tốt và có dân
chủ thực sự)? Câu này có vẻ khó khơn. Không phải nước nào quá trình dân
chủ hóa cũng được tốt đẹp như Chile. Các mạng ở nhiều nơi chỉ là đổi từ
một chế độ độc tài này sang chế độ mất tự do khác.
Có một số nguyên nhân thuận lợi khiến cho Chile có một “kết thúc có hậu” là:
- Nước Chile có truyền thống dân chủ lâu đời (trước giai đoạn độc tài
là giai đoạn dân chủ dài, người dân quen với dân chủ hơn là với độc
tài)
- Chính quyền quân sự chỉ luôn có tính tạm thời, không thể thành
chính quyền vĩnh viễn. Bản thân Pinochet biết điều này, nên có chủ động
tìm lối thoát (qua hiến pháp 1980 và trưng cầu dân ý 1988).
- Sự chấm dứt của chiến tranh lạnh trùng với thời điểm Pinochet thôi
chức tổng thống. Chiến tranh lạnh kết thúc kéo theo Mỹ không còn ủng hộ
chính quyền độc tài Pinochet như trước, mà ủng hộ một quá trình dân chủ
hóa Chile hơn.
- … ?
Một số tài liệu tham khảo
http://www.youtube.com/watch?v=X6kkaIfy9wU (phim tài liệu: The Overthrow of Democratic Chile)