Khi trang mạng “Cùng Viết Hiến Pháp”
của GS Châu và GS Sơn ra đời, tôi cũng không ý thức được giá trị của
trang web này ngay với cá nhân mình. Lúc đầu thì theo thói quen, thấy
trang web có giá trị thì hì hụi đi phát tán. Sau thì tranh thủ những lúc
trong máu không có cồn (đang mùa tất niên hội hè mien man) đọc các bài
viết trên đấy.
Bỗng giật mình nhận ra, lần duy nhất trong đời mà tôi học một thứ gọi là văn bản luật, là cái hôm thi bằng lái xe.
Còn thì không thể nhớ ra dù chỉ một lần được học, hay giảng, hoặc thậm chí là được giới thiệu về hiến pháp trên lớp học.
Thậm chí, cũng chưa một lần tự mình tìm cái bản hiến pháp của nước mình về rồi tự đọc.
Bỗng ngộ ra rằng, cái gì mà không có thực chất, chỉ là hình thức, thì sự tồn tại của nó có cũng như không.
Bỗng vì lý do gì đó, hiến pháp của nước mình bất ngờ không còn tồn
tại, thì mọi thứ vẫn hoạt động bình thường, chả có gì suy chuyển.
Thế thì tức là nếu làm ngược lại, sửa nó cho thật hay, thì cũng chẳng suy chuyển được cái gì.
Chuyện Hiến pháp tự nhiên tréo nghoe ra như vậy, đành phải ôm sách về nhà tự nghiên cứu.
Không rõ từ nguyên chữ Hiến-Pháp trong tiếng Việt là gì, nhưng rất
may là sách có nói chữ Constitution, là do chữ Constitutio của chữ
Latin, đi qua tiếng Pháp, rồi mà thành. Chữ này có nghĩa là quy tắc
(regulations and orders).
Về lý thuyết, ở một số nước, Hiến pháp là bộ luật gốc, từ đó tạo sinh
ra nhà nước, mô hình và cách thức vận hành cái nhà nước ấy. Ở những
nước này Hiến pháp là tối quan trọng.
Nhưng lại có những nước mà ở đó nhà nước, nếu thích, có thể tự soạn
và ban hành hiến pháp bất cứ lúc nào. Tất nhiên là ở những nước như vậy,
Hiến pháp không có vai trò gì cho lắm.
Hiến pháp không tự nhiên sinh ra, mà phải có ai đó viết. Hiến Pháp
cũng không phải là một văn bản tập hợp các quy tắc gốc vô hồn, mà đằng
sau nó phải có tinh thần, có chủ thuyết của những người lập ra hiến
pháp. Hay nói theo kiểu Steve Jobs, Hiến Pháp là một sản phẩm mà đằng
sau nó có triết lý (philosophy) của người làm ra nó. Philosophy có gốc
là hai chữ Hy Lạp: philein và sophian. Chữ philein nghĩa là ước vọng,
sophian là cái chân-thiện. Hiến-Pháp tốt đương nhiên phải có đạo lý sâu
rộng ở phía sau văn bản ngữ nghĩa.
Bản Hiến pháp được coi là mẫu mực của thế giới, cũng đồng thời là
hiến pháp thành văn đầu tiên, là hiến pháp Hoa Kỳ. Bản hiến pháp này
cũng ngắn nhất khi chỉ có 7 điều và 27 tu chính án (7 điều và 27 điểm
sửa chữa bổ sung). Bản Hiến Pháp này ra đời năm 1787 và tồn tại đến tận
bây giờ.
Chủ thuyết của Hiến pháp Hoa kỳ, như GS Wendy N Duong tóm tắt ở bài viết “Tổng quan về Hiến pháp Hoa Kì” rất đơn giản: (i)
phân quyền lực (mối quan hệ giữa ba nhánh của chính phủ), (ii) chủ
thuyết liên bang (mối quan hệ giữa chính phủ quốc gia trung ương và
chính phủ các tiểu bang), (iii) cơ chế toà án bảo hiến ( cơ chế mà qua
đó Hiến pháp được hiểu, áp dụng và tôn trọng), và (iv) Bản Tuyên ngôn
Quyền (nói lên mối quan hệ giữa chính phủ và cá nhân).
Về chủ thuyết phân ba nhánh của Hiến Pháp Hoa Kỳ, nếu diễn giải nôm
na thì: Lập Pháp là Quốc Hội gồm hai viện Thượng và Hạ không được phép
hoạt động đơn phương. Hành pháp là Tổng thống. Tư Pháp là hệ thống tòa
án liên bang. Trong đó có Tòa án tối cao liên bang, do chính Hiến Pháp
tạo sinh ra để diễn giải và thực hành Hiến Pháp (vai trò như tòa án bảo
vệ hiến pháp).
Nhân đây, cũng xin phép nhắc một chút về mốc thời gian: Năm 1787 là
năm ở Mỹ bản Hiến pháp Mỹ ra đời, thì ở vùng đất gọi là VN bây giờ, đang
là lúc Nguyễn Huệ đang đánh nam dẹp bắc loạn lạc binh đao. Năm 1787 là
năm Nguyễn Huệ kéo quân về đánh Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn. Nước Việt Nam
ngày nay, lúc đó chưa hình thành (tiền thân của nước Việt Nam hiện đại,
đến năm 1802 mới xuất hiện).
Còn Hiến Pháp của Việt Nam đang được góp ý sửa đổi, ra đời năm 1992,
chủ thuyết là Nhà nước thống nhất (không phân chia quyền lực). Điều này
ghi rõ trong Điều 2 của Hiến pháp.
Mặc dù nước ta có tới mấy ngàn năm văn hiến, nhưng nhìn vào thời điểm
Hiến pháp Mỹ ra đời và so với lịch sử cận đại của Việt Nam, lại có thể
thấy rằng chúng ta sinh sau đẻ muộn hơn nhiều.
Cho nên việc học hỏi cách người Mỹ làm ra bản Hiến pháp của họ là một
việc nên làm và chả có gì phải xấu hổ khi bắt chước họ cái cách làm ra
hiến pháp.
Việc bắt chước này, tất nhiên không phải là sự bắt chước máy móc,
hoặc nhắm mắt sao chép hiến pháp Hoa kỳ. Bởi chính Alexander Hamilton,
một trong những người tham gia kiến tạo bản Hiến Pháp Hoa Kỳ, có nói
rằng: “Tôi đồng ý với Montesquieu rằng mỗi chính quyền cần phù hợp
với một quốc gia, như mỗi cái áo phù hợp với một cá nhân. Điều kỳ diệu ở
Philadelphia có thể sẽ là điều tồi tệ ở Paris và trở nên lố bịch ở
Saint Petersburg”.
Montesquieu là cha đẻ của tam quyền phân lập, là chủ thuyết đằng sau
Hiến Pháp Mỹ. “Điều kỳ diệu ở Philadelphia” là cách các sử gia Mỹ gọi
Hiến pháp Mỹ, do Hội nghị lập hiến diễn ra ở Philadenphia và kết quả của
hội nghị này chính là bản Hiến pháp Mỹ.
Nước Mỹ giành độc lập vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. Trong những năm
đầu, chính quyền non trẻ của Mỹ hoạt động dựa vào sự hợp tác của các
bang đầu tiên tham gia cách mạng, dưới một thỏa ước chung gọi là
Articles of Confederation (Điều khoản hợp bang). Cái điều khoản hợp bang
này chính là hiến pháp đầu tiên của Mỹ (được phê duyệt năm 1781).
Lúc này nước Mỹ rất yếu, nghèo nàn, chính phủ kiệt quệ, không có hành
pháp, không tòa án tối cao, không quân đội liên bang mà chỉ có quân đội
tiểu bang, uy tín quốc tế bằng số không. Kinh tế suy thoái lao dốc,
tiền tệ lạm phát, loạn lạc bên trong, ngoại bang đe dọa bên ngoài.
Nhưng những nhà lãnh đạo nước Mỹ lúc đó không yếu ớt. Một vài trong
số họ, vốn là công thần lập quốc, thấy cần phải có một Hiến pháp mới để
thay đổi nhà nước Mỹ và thay đổi tương lai của nước Mỹ. Họ đã vận động
tổ chức hội nghị lập hiến. Từ hội nghị lập hiến này (1787) đã cho ra đời
bản Hiến pháp Mỹ. Bản Hiến pháp Mỹ này đã làm thay đổi nước Mỹ, biến
nước Mỹ thành siêu cường, và cũng một phần nào đó cũng đã góp phần làm
thay đổi cả thế giới.
Như vậy, việc sửa đổi hiến pháp đã một việc cực kỳ quan trọng đối với vận mệnh của nước Mỹ.
Năm 1787, tức là khá lâu sau khi Mỹ giành độc lập, mới có Hội nghị
lập hiến này. Hội nghị diễn ra tập trung. Các đại biểu của các tiểu bang
phải tự đi xe ngựa về Philadenphia, tự ăn tự ngủ suốt mấy tháng liền
trong thời gian họp.
Có 74 đại biểu được triệu tập nhưng chỉ có 55 người có mặt. Trong số
55 người này chỉ có 39 người cuối cùng ký vào bản Hiến pháp mới.
Để bắt đầu, họ bầu ra một người rất có uy tín làm Chủ tịch hội đồng
lập hiến: đó là tướng George Washington, vị tổng tư lệnh trong cuộc
chiến với đế quốc Anh để dành độc lập cho Hoa Kỳ hơn 10 năm trước đấy.
Bộ óc soạn thảo Hiến pháp Mỹ trong hội nghị lập hiến, và sau đó là các
tu chính án (được biết với tên Tuyên ngôn nhân quyền) là của một ngôi
sao trẻ 36 tuổi tên là James Madison. Ông này sau cũng làm tổng thống Mỹ
(tổng thống thứ 4).
Như vậy, có thể học được một điều, là Hiến pháp cần một hội nghị
lập hiến nghiêm túc, có người đứng đầu là một cá nhân có uy tín. Còn bộ
óc soạn thảo, trong quá trình làm việc, sẽ tự xuất hiện.
Hội nghị Lập hiến họp kín, có các thư ký, có các chủ tọa, và thực tế
là cãi nhau như mổ bò từ suốt 25 tháng 5 đến tận 24 tháng 7 mới có Đại
Thỏa Hiệp (Great Compromise) chọn được một phương án chủ đạo từ các
phương án (Virginia Plan, New Jersey Plan). Virginia Plan chính là một
phiên bản sơ khởi quan trọng để soạn thảo Hiến pháp Mỹ. Đằng sau
Virginia Plan là chủ thuyết dựa vào tư tưởng của các triết gia và chính
trị gia: Montesquieu, Locked và Coke (hai tác giả đầu đã được dịch và
xuất bản ở Việt Nam).
Điều thứ hai có thể học hỏi ở đây, là rất cần các debate trực
diện, mệt mỏi, trí tuệ và tốn thời gian. Đồng thời cũng cần các version
khác nhau của Hiến pháp, với các chủ thuyết khác nhau, để các phe tranh
cãi dùng để biện luận. Hiến pháo 1992 và dự thảo sửa đổi cũng có thể sẽ
là một Plan tốt. Hiến pháp mà nhân dân “cùng viết hiến pháp” đề xuất,
cũng là một Plan tốt nữa.
Điều thứ ba có thể học hỏi, là cuối cùng phải có một cái Đại Thỏa
Hiệp, chốt lại các điểm quan trọng nhất, có giá trị vững bền nhất, được
đồng thuận cao nhất. Còn nếu ai cũng chỉ thấy mình đúng, cái mình viết
ra, cái mình đề xuất là xuất sắc nhất, thì chắc chắn bản Hiến pháp có ra
đời thì cũng rất ít giá trị.
Đến ngày 24 tháng 7, một tiểu ban gồm 5 đại biểu được giao cho viết soạn thảo Hiến pháp chi tiết.
Đến mùng 6 tháng 8 năm 1787 thì viết xong. Từ lúc đó đến mùng 10
tháng 9 các vị lại cãi nhau như mổ bò, nhưng lúc này là trên từng điều
khoản.
Như vậy việc soạn thảo hiến pháp Mỹ, do các bộ óc lớn, am hiểu sâu
sắc về chính trị, triết và luật, rất là gian nan như vậy. Trong đó có
James Madison, lúc này mới có 36 tuổi, và trước khi tham gia hội nghị
lập hiến đã bỏ vô cùng nhiều thời gian để nghiên cứu các trước tác từ cổ
chí kim tính đến lúc đó.
Sau khi có bản Hiến pháp cuối cùng và được hội nghị lập hiến ký kết,
bản hiến pháp này còn phải được các tiểu bang thông qua bằng cách bỏ
phiếu ở từng tiểu bang. Việc này cũng rất gian nan do bị nhiều thế lực
chống đối kịch liệt.
James Madison, Alexander Hamilton và Jay viết một loạt bài báo, nay được biết với tên Federalist Papers (Luận cương Người liên bang) để bẻ hết các lập luận của phe chống-liên bang. Madison cũng hiểu là cần các tu chính án thêm vào (về nhân quyền) thì các tiểu bang mới chịu thông qua, cho nên ông vận động ác liệt cho 12 tu chính án đầu tiên. Nay 12 tu chính án này được biết đến với tên Bill of Rights (Tuyên ngôn Nhân quyền).
James Madison, Alexander Hamilton và Jay viết một loạt bài báo, nay được biết với tên Federalist Papers (Luận cương Người liên bang) để bẻ hết các lập luận của phe chống-liên bang. Madison cũng hiểu là cần các tu chính án thêm vào (về nhân quyền) thì các tiểu bang mới chịu thông qua, cho nên ông vận động ác liệt cho 12 tu chính án đầu tiên. Nay 12 tu chính án này được biết đến với tên Bill of Rights (Tuyên ngôn Nhân quyền).
Đến 30 tháng 4 năm 1789 thì Hoa Kỳ có tổng thống đầu tiên, chính là George Washington.
Với Federalist Papers, quá trình soạn thảo hiến pháp Mỹ đã vô tình đẻ
ra một tác phẩm được coi là chủ thuyết của chính quyền liên bang (như
nhận xét của John Stuart Mill) và là cuốn sách cho mọi chính khách của
bất cứ nước nào (nhận xét của Alexis Tocqueville) và ngày nay được coi
là cuốn sách lớn ngang với Cộng Hòa (Plato), Chính trị luận (Aristotle)
và Leviathan (Hobbles). (Ngoại trừ Leviathan, và Federalist Papers, các
cuốn sách trong paragraph này đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam).
Các cuộc tranh luận cãi vã đều được thư ký hội nghị và đặc biệt
là James Madison ngồi ghi chép kỹ lưỡng. Những người tham gia soạn thảo
Hiến Pháp của các nước sau này đều phải tham khảo các ghi chép này, cũng
như đọc Luận cương Liên Bang và bản gốc (chưa sửa đổi) của Hiến Pháp
Mỹ. Các nhà soạn thảo Hiến pháp của Việt Nam có lẽ cũng không nên làm
những người ngoại lệ. Tài liệu về Hội nghị lập hiến Hoa kỳ có rất nhiều.
Bản tiếng Việt có thể tham khảo là cuốn “Hiến pháp Mỹ được làm ra như
thế nào” của Nguyễn Cảnh Bình. Đây là điều thứ tư cần học hỏi.
Thế rồi, dù có học hỏi đến thế nào, thì câu hỏi cũng vẫn sẽ là“Điều
kỳ diệu ở Philadelphia” trở thành “Điều kỳ diệu ở Hà Nội” được không, sẽ
tùy thuộc vào tầm nhìn, tư tưởng và sự cởi mở đầu óc của những người
tham gia lập hiến.
Ví dụ như chuyện Đảng. Hiến pháp Mỹ không đề cập gì tới đa nguyên hay
đảng phái gì. Các chính đảng ở Hoa Kỳ hiện nay đều sinh sau đẻ muộn so
với Hiến pháp Mỹ.
Ví dụ như, phải chăng chủ thuyết nhà nước thống nhất (điều 2) và vai
trò của đảng cầm quyền (điều 4) của Hiến pháp Việt Nam vẫn có thể có
Great Compromise với Hiến pháp tam quyền phân lập của Hoa Kỳ? Phải chăng
vẫn có cách để một Hiến pháp do nhà nước tạo ra, mà sau này hiến pháp
ấy vẫn có thể tạo sinh vận hành ngược được nhà nước?
+ Phải chăng Hiến pháp sửa đổi sẽ mở ra cách nào đưa TW Đảng thành
Thượng viện, nơi các Thượng nghị sỹ là TW Ủy viên đến từ địa phương và
nội các. Và Tổng bí thư làm chủ tịch thượng viện. Ở đó các Thượng nghị
sỹ – TW ủy viên có nhiệm kỳ 6 năm, được bầu 2 năm một lần, một phần ba
được bầu lại, hai phần ba lưu nhiệm. Còn Quốc hội hiện nay trở thành Hạ
viện, hai năm thay đồng loạt một lần. Sẽ đến lúc nào đó, các thượng nghị
sỹ có thể đến từ một đảng bất kỳ, hoặc không từ đảng phái nào, mà hiến
pháp sẽ không cần phải sửa đổi. Hay lúc đó chủ tịch thượng viện không
nhất thiết phải là tổng bí thư nữa. (Xem Hiến pháp Hoa Kỳ kèm chú thích).
+ Phải chăng Hiến pháp sửa đổi sẽ đặt Chủ tịch nước thành người đứng
đầu tòa án tối cao, có 7 thẩm phán tối cao do mình hoặc các chủ tịch
nước nhiệm kỳ trước bổ nhiệm, giống như tổng thống mỹ bổ nhiệm thẩm phán
tối cao và các vị này không về hưu. Để tòa án tối cao này làm tòa bảo
hiến, diễn giải và thực thi hiến pháp. (Xem Hiến pháp Hoa Kỳ kèm chú thích).
Tất cả những điều này không một cá nhân, một nhóm người nào có thể tự
nghĩ ra được. Vẫn phải cần một hội nghị lập hiến chính thống, nghiêm
túc, mà ở đó những nhà lập hiến không chỉ ngồi viết ra một bản hiến pháp
lời hay ý đẹp, mà còn phải viết để làm sao ngay khi nó được thông qua,
nó sẽ lập tức đi vào cuộc sống, thực sự vận hành nhà nước và xã hội, và
tất nhiên là nó sẽ tồn tại cả vài trăm năm mà rất ít cần sửa đổi.