Chuyện vàng trở thành đề tài bàn tán sôi nổi, cả ngoài xã hội
lẫn trên hội trường Quốc hội. Nhưng có một câu hỏi chưa thấy ai, kể cả
các quan chức ở Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trả lời: Vì sao cần có một thương hiệu vàng quốc gia?
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình chỉ giải thích vì sao chọn SJC làm
thương hiệu vàng quốc gia (“SJC chiếm 93-95% thị trường vàng miếng; để
tránh sự nhầm lẫn và lãng phí nên chúng tôi chọn thương hiệu này”) mà
không nói vì sao cần phải có một sự chọn lựa như thế. Ông khẳng định
không hề bắt buộc người dân phải chuyển đổi từ các loại vàng khác sang
vàng SJC cũng như không hề có sự phân biệt đối xử giữa các loại vàng
này. Thế thì chọn SJC làm thương hiệu vàng của NHNN để làm gì?
Nếu nói NHNN đang nỗ lực chống hiện tượng “đô-la hóa”,
“vàng hóa” trong nền kinh tế thì việc có một thương hiệu vàng quốc gia
lại góp phần làm nặng thêm tình trạng “vàng hóa” chứ đâu phải ngược lại.
Theo thông lệ quốc tế, vàng được chia làm hai loại: vàng tiền tệ và
vàng phi tiền tệ, tức là vàng hàng hóa. Vàng tiền tệ là vàng do ngân
hàng trung ương sở hữu và nắm giữ làm tài sản dự trữ, lúc đó vàng cũng
tương đương như ngoại tệ. Ví dụ, chính phủ Mỹ nắm giữ 8.133 tấn vàng,
chiếm đến 76,6% tổng dự trữ ngoại tệ của nước này; hay Trung Quốc có
chừng 1.054 tấn vàng dự trữ, chỉ chiếm 1,8% tổng dự trữ ngoại tệ (số
liệu cuối năm 2010). Vàng phi tiền tệ là vàng do người dân, doanh nghiệp
hay thậm chí do các ngân hàng thương mại nắm giữ cho dù mục đích là
kinh doanh hay lưu giữ giá trị.
Nếu NHNN bỏ tiền ra mua vàng đưa vào kho dự trữ của mình
thì lúc đó mới gọi là hạn chế tình trạng “vàng hóa”. Vàng đưa vào dự trữ
là vàng thỏi bốn số 9, chứ cần gì phải là vàng có thương hiệu quốc gia.
Đằng này khi quyết định chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia trong
khi trong tay nắm không bao nhiêu số lượng vàng này, có nghĩa NHNN đã
“vàng hóa” trên quy mô lớn, thậm chí là rất lớn, bởi vàng SJC trong tay
người dân có khả năng biến thành vàng tiền tệ trong một sớm một chiều.
Hay nói cách khác, vàng SJC trong dân từ chỗ là hàng hóa bình thường nay
bỗng trở thành một dạng ngoại tệ, càng làm chính sách tiền tệ khó điều
hành.
Nhìn như thế mới thấy vì sao giữa vàng SJC và vàng thương hiệu khác
đang có chênh lệch lớn về giá, vì sao người dân cứ chuyển đổi vàng phi
SJC thành vàng SJC cho yên tâm bất kể lời trấn an hay lời khuyên của
quan chức không nên vội vàng chuyển đổi.
Ở góc độ quản lý, có người giải thích, sở dĩ NHNN quyết định có một
thương hiệu vàng quốc gia là để ngăn ngừa chuyện nhập lậu vàng, làm thất
thoát ngoại tệ và gây căng thẳng tỷ giá. Mỗi khi giá vàng trong nước
cao hơn giá vàng quốc tế, dân buôn lậu sẽ thu gom đô-la Mỹ đem ra nước
ngoài mua vàng, chuyển lậu về Việt Nam để hưởng chênh lệch giá. Nay vàng
lậu đem về lại bằng giá quốc tế (hiện giá vàng phi SJC thấp hơn giá
vàng SJC nên gần như tương đương giá vàng thế giới) thì sẽ không còn ai
buôn lậu, cầu ngoại tệ không có thì áp lực lên tỷ giá sẽ không tồn tại.
Ở đây chúng ta thấy ngay hàng loạt lỗ hổng về quản lý. Có gì bảo đảm
vàng lậu nhập về không được chuyển thành vàng SJC với chi phí không đáng
kể dưới dạng vàng phi SJC muốn chuyển đổi thành vàng SJC? Hiện nay quá
trình này vẫn đang diễn ra và NHNN chịu áp lực phải giúp chuyển đổi
nhanh, đi đến chỗ không còn chênh lệch giá giữa các loại vàng. Như thế
chọn SJC làm thương hiệu vàng quốc gia có giúp ổn định tỷ giá chăng? Có
ai bảo đảm tỷ giá không biến động nhờ chính sách vàng hay nhờ Việt Nam
từ chỗ nhập siêu lớn sang xuất siêu hay do đồng đô-la Mỹ yếu đi so với
nhiều đồng tiền khác? Quan trọng hơn, một khi NHNN khẳng định không phân
biệt đối xử giữa các loại vàng thì làm sao hạn chế được vàng nhập lậu
như mong muốn.
Việc quyết định phải có một thương hiệu vàng quốc gia đang gây ra
nhiều xáo động trên thị trường, tạo ra nhiều khe hở dễ bị lợi dụng, đồng
thời tạo ra cơ chế xin cho nên sẽ có nhiều người hưởng lợi và nhiều
người, chủ yếu là người dân thiếu thông tin bị thiệt hại.
Đáng ngạc nhiên nhất, thương hiệu vàng quốc gia là chuyện nói miệng
chứ không có cơ sở pháp lý nào cả. Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ
về quản lý hoạt động kinh doanh vàng hoàn toàn không có dòng nào về
thương hiệu vàng quốc gia. Nghị định này chỉ nêu nguyên tắc quản lý là
“Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng” và định nghĩa rõ: “Vàng
miếng là vàng được dập thành miếng, có đóng chữ, số chỉ khối lượng, chất
lượng và ký mã hiệu của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng được Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam cho phép sản xuất hoặc vàng miếng do Ngân hàng Nhà
nước tổ chức sản xuất trong từng thời kỳ”. Rõ ràng tinh thần của
Nghị định này là sẽ tồn tại song song nhiều thương hiệu vàng miếng chứ
đâu nói gì đến một thương hiệu vàng quốc gia!