Bill Hayton
Huỳnh Phan chuyển ngữ
Huỳnh Phan chuyển ngữ
Đôi lời: Tác giả bài viết này, Bill Hayton đã từng bị Bộ Công an Việt Nam cấm cửa, không cho vào Việt Nam tham dự hội thảo về Biển Đông hồi tháng 11 năm 2012 ở Sài Gòn, mặc dù ông đã được Học viện Ngoại giao (thuộc Bộ Ngoại giao VN) gửi thư mời tham dự. Nhiều người nhận định rằng, cuốn sách “Việt Nam: con rồng đang lên” của Bill Hayton đã làm cho nhà cầm quyền khó chịu. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, do Bill Hayton thường đưa tin về các vụ khiếu kiện cũng như về những nhà đồng chính kiến ở VN trước đây, nên đã làm cho an ninh Việt Nam khó chịu, và họ đã cấm không cho ông nhập cảnh. Đây là cái tát của Bộ Công an, tát vào Bộ Ngoại giao Việt Nam, và sự kiện này có thể thấy được quyền hành của bộ nào lớn hơn.
Anh Ba Sàm
Bắc Kinh đã với tay quá xa ngoài biển Đông?
Trung Quốc đã đạt được gì khi đưa giàn khoan nước sâu của họ vào vùng biển ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa?
Với một hành động đơn lẻ họ đã ‘thành công’ làm vỡ mối quan hệ với
những người cộng sản anh em tại Việt Nam, làm công luận Việt Nam phẫn
nộ, tạo ra hàng gigabyte tin trên phương tiện truyền thông quốc tế quan
trọng, làm sống lại diễn từ về “mối đe dọa Trung Quốc” ở Đông Nam Á và
làm ASEAN thống nhất, đứng sau một tuyên bố quan trọng về hành động của
họ. Ít nhất 3.000 người Trung Quốc đã bị buộc phải rời khỏi Việt Nam
trước đám đông giận dữ đã đốt hàng chục nhà máy, không phân biệt là của
người Hoa Đài Loan hay Hoa lục địa. Và để làm gì?
Luôn có cơ may để giàn khoan dầu này có thể khoan ra dầu nhưng xác
suất rất mỏng manh. Có thể CNOOC đã nắm được các khảo sát địa chấn của
khu vực này nhưng dường như có nhiều khả năng là chỗ đặt giàn khoan được
chọn vì lý do địa chính trị hơn là địa lý. Chưa có mỏ dầu nào khác được
phát hiện gần quần đảo Hoàng Sa.
Theo Yenling Song của Platts Energy ở Singapore, ước tính CNOOC phải
chi 328.000 USD một ngày để giữ giàn khoan ở điểm đó. Mặc dù CNOOC có
đầy rẫy tiền mặt, nó không thể để giàn khoan ở mãi một vị trí mà chẳng
tìm ra thứ gì. Giàn khoan cuối cùng sẽ phải rút đi, và một khi nó ra đi,
biển sẽ trống vắng trở lại. Tất cả những rắc rối gây ra hơn hai tuần
qua sẽ chẳng vì lợi lộc kinh tế nào cả.
Nếu lợi nhuận không phải là lý do để CNOOC khoan ngoài khơi quần đảo
Hoàng Sa thì chúng ta phải giả định rằng có các yếu tố khác đã ảnh
hưởng đến những người ra quyết định ở Bắc Kinh. Tuy nhiên, khi chúng ta
lần lượt nhìn vào từng yếu tố, có vẻ như khó để thấy cuộc đối đầu hiện
nay sẽ thúc đẩy lợi ích tổng thể của Trung Quốc đi lên như thế nào. Thật
ra, có vẻ lợi ích đó có nhiều khả năng sẽ bị tổn hại hơn.
Có thể Bắc Kinh nghĩ rằng khoan dầu sẽ là một sự khẳng định rõ ràng
chủ quyền thuộc về Trung Quốc: một hành động sẽ hậu thuẫn cho yêu sách
lãnh thổ của đất nước này. Tuy nhiên, có thể dự đoán được là Việt Nam
cũng thực hiện một phản ứng không kém quyết đoán. Tòa án quốc tế sẽ
không coi cuộc đối đầu hiện nay là việc củng cố cho yêu sách của bên nào
đối với các đảo và vùng nước xung quanh. Nếu việc củng cố vị thế pháp
lý của Bắc Kinh là lý do cho thao tác đó thì họ đã thất bại.
Chia tách ASEAN?
Động thái này có thể là một nỗ lực để chia tách Hiệp hội các nước
châu Á và cô lập Việt Nam. Có lẽ Bắc Kinh đã hy vọng lặp lại việc làm
thành công của họ tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN họp tại Phnom
Penh vào tháng 7 năm 2012. Cuộc họp đó tiếp sau việc Trung Quốc chiếm
đóng thành công bãi cạn Scarborough, một rạn san hô nằm ngay trong vùng
đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines, và cũng sau việc CNOOC thông
báo mời đấu thầu các lô thăm dò dầu trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của
Việt Nam. (Những lô này nằm ngay phía nam địa điểm tranh chấp hiện nay).
Tại cuộc họp Phnom Penh, Philippines và Việt Nam yêu cầu các đồng
nhiệm ASEAN ra một tuyên bố ủng hộ. Nỗ lực của họ đã bị cản trở bởi
những hành động của nước chủ nhà, Campuchia phủ quyết bất kỳ tuyên bố
nào có đề cập đến các sự cố này. Nhiều tường thuật vào thời điểm đó cho
thấy rằng Campuchia đã làm như vậy là do ảnh hưởng mạnh mẽ của ngoại
giao và viện trợ của Trung Quốc. ASEAN gánh chịu chia rẽ và thương tổn.
Có lẽ Trung Quốc hy vọng sẽ lặp lại thành công đó lần này bằng việc
ra tay với Việt Nam chỉ vài ngày trước hội nghị thượng đỉnh ASEAN. Có lẽ
các nhà ngoại giao của TQ tự tin rằng họ có thể thuyết phục Campuchia
và có thể Myanmar, Thái Lan hoặc Lào phủ quyết một tuyên bố chung, để
Việt Nam bị cô lập và ASEAN chia tách. Điều đó đã không xảy ra. ASEAN đã
ra tuyên bố đặc biệt phê phán các sự cố ở biển Đông.
Một số nhà quan sát cho rằng vì tuyên bố không nêu rõ tên Trung
Quốc, nên Việt Nam đã thất bại trong việc giành lấy sự ủng hộ của các
nước ASEAN. Nhưng ASEAN không làm việc theo cách đó. Quay trở về tận
tuyên bố lần đầu tiên của ASEAN về biển Đông vào năm 1992, sau khi Bắc
Kinh cấp chuyển nhượng quyền khai thác dầu ngoài khơi bờ biển Nam Việt
Nam cho một công ty Mỹ, và khi Bắc Kinh chiếm đảo Vành Khăn trong EEZ
của Philippines năm 1995 – ASEAN luôn luôn bày tỏ mối quan ngại của mình
với sự kiềm chế và bình thản. Bất cứ ai mong đợi ASEAN áp đặt trừng
phạt kinh tế Trung Quốc, hoặc phái một lực lượng đặc nhiệm biển ra tống
tiễn giàn khoan dầu của CNOOC cần tìm hiểu thêm một chút về Đông Nam Á.
Tuy nhiên, nếu Bắc Kinh hy vọng cô lập Việt Nam và chia tách ASEAN,
họ đã thất bại. ASEAN đã đứng lên từ khủng hoảng, đoàn kết và cảnh giác
hơn bao giờ hết về ý định của Trung Quốc.
Gây sức ép với Việt Nam?
Tháng 12 năm 2000 Trung Quốc và Việt Nam thoả thuận đường phân giới
biển chung nằm trong Vịnh Bắc Bộ. Đường này chạy từ biên giới Trung Quốc
trên bờ biển đất liền theo hướng đông nam xa tới đảo Hải Nam. Mặc dù đã
gần 14 năm đàm phán kể từ đó, hai bên đã không thể thoả thuận đường này
sẽ đi tiếp tới chỗ nào. Điểm bế tắt là tranh chấp về quyền sở hữu quần
đảo Hoàng Sa. Quần đảo này nằm ngoài cửa Vịnh và nếu không có một giải
pháp cho tranh chấp này thì không thể có thoả thuận về đường phân giới.
Tháng 10 năm ngoái, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đến thăm Việt
Nam và Chính phủ hai nước đã đồng ý thành lập một “nhóm công tác biển”.
Tuy nhiên, dù có sự thúc giục của Lý Khắc Cường vẫn không có tiến bộ
nào trong việc vẽ đường ranh giới. Trong bối cảnh đó, việc triển khai
giàn khoan dầu có thể được hiểu như nỗ lực của Bắc Kinh để nâng tầm quan
trọng, cố cho Việt Nam thấy rằng Bắc Kinh không đùa trong việc xốc tới
với việc phát triển các nguồn tài nguyên biển dù Hà Nội có đồng ý hay
không.
Tuy nhiên, động tác mạnh bạo này dường như không có hiệu quả. Có vẻ
không thể xảy ra việc giàn khoan sẽ khám phá ra mỏ dầu khí có trữ lượng
thương mại. Thậm chí nếu có thì những khó khăn trong việc đặt đường ống
dẫn hoặc duy trì một đội sà lan đối mặt với sự phản kháng của Việt Nam
sẽ là đáng kể. Việt Nam có thể chỉ cần thách thức ý định của TQ. Sẽ
không có sự phát triển chung thực sự của khu vực này mà không có sự đồng
ý của Việt Nam.
Gây áp lực ASEAN
Tương tự, động thái mới nhất này có thể được hiểu như là Trung Quốc
gây sức ép với Việt Nam và các thành viên ASEAN khác đồng ý các chi tiết
của một Bộ Quy tắc Ứng xử mới cho biển Đông. ASEAN hy vọng Bộ Quy tắc
này sẽ ngăn chặn các tranh chấp trên biển nhưng Trung Quốc không vội vã
trong việc đưa nó thành hiện thực. Các cuộc đàm phán, hoặc thường hơn là
những đàm phán về đàm phán, đã kéo lê năm này qua năm khác. Bế tắc mới
nhất này có vẻ gần như đảm bảo sẽ làm cho ASEAN đòi hỏi một bộ quy tắc
ứng xử cứng rắn hơn để ngăn chặn những sự cố tương tự xảy ra lần nữa. Đó
không phải là điều mà Bắc Kinh mong muốn. Một lần nữa, việc triển khai
giàn khoan dường như đã gây tổn hại lợi ích lâu dài của Trung Quốc.
Chiến thuật đánh lạc hướng
Cách giải thích có lý nhất về việc triển khai giàn khoan, và là cách
duy nhất cho thấy Bắc Kinh sẽ đạt được những gì họ muốn, là việc phát
hiện mới đây rằng các lực lượng Trung Quốc đang tham gia vào một dự án
xây cất quy mô lớn trên đá Gạc Ma (Johnson Reef). Đây là một bãi cát,
chìm dưới nước khi triều cao mà lực lượng Trung Quốc chiếm lấy bằng vũ
lực vào năm 1988, một động thái kích động nên một trận đánh làm mấy chục
binh sĩ Việt Nam bị tàn sát bằng súng máy Trung Quốc. (Một đoạn video
về cuộc tàn sát này phổ biến trên YouTube.) Có suy đoán rằng Trung Quốc
có ý định biến rạn san hô này thành một căn cứ không quân. Bằng cách
chuyển sự chú ý toàn cầu và của cảnh sát biển và hải quân Việt Nam vào
quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc có thể cho mình khoảng trống cần thiết để
bắt đầu công trình mà không bị quấy rối.
Tại sao?
Một ngày nào đó chúng ta có thể phát hiện chính xác lý do tại sao
phía Trung Quốc quyết định triển khai giàn khoan cùng đội tàu đi kèm đến
chỗ đó vào thời điểm này. Chúng ta biết rất ít về cách mà những quyết
định như thế được đưa ra. Các nhà quan sát đóng tại Bắc Kinh cho rằng Bộ
Ngoại giao gần như không có quyền lực trong guồng máy Trung Quốc. Một
nhà phân tích nói với International Crisis Group (Nhóm giải quyết các
khủng hoảng quốc tế) năm 2012 rằng, Bộ này đứng đâu đó giữa thứ hạng 40
và 50 trong hệ thống tầng bậc của guồng máy.
Quan trọng hơn nhiều là quân đội, những bộ phận thuộc sở hữu nhà
nước tạo được thu nhập lớn như CNOOC và các tỉnh như Hải Nam và Quảng
Đông. Cũng có thể là đây chính là những diễn viên đã thúc đẩy chiến dịch
quần đảo Hoàng Sa. Bộ Ngoại giao có thể đã không đủ khả năng chống lại
áp lực kết hợp của họ.
Người nước ngoài có xu hướng xác định việc hoạch định chính sách
ngoại giao Trung Quốc theo hai cách. Thứ nhất là “Trung Quốc Toàn Năng” –
những hành động của một cường quốc kiên quyết vươn lên, quyết chí đạt
tới việc thống trị Đông Á, đe dọa các nước láng giềng và phá hoại lợi
ích của Mỹ trong khu vực.
Đôi khi có xu hướng giải thích theo khuôn mẫu phương Đông về các
quan chức khôn ngoan, thông thái che giấu ý định thực sự của họ đằng sau
lớp mặt nạ rất bí mật. Chúng ta có thể gọi đây là “Trung Quốc Toàn
Giác”.
Nhưng bế tắc mới nhất này cũng cung cấp bằng chứng cho một cách giải
thích thứ ba. Bắc Kinh đã không tạo được tiến bộ trong bất kỳ mục tiêu
lớn hơn trong khu vực: chỉ toàn điều ngược lại. Họ đã khó chịu, căm ghét
và lo ngại các nước láng giềng và cho họ thêm lý do để ôm lấy việc Mỹ
chuyển trục sang châu Á. Cả Malaysia lẫn Indonesia đều đang nói công
khai hơn bao giờ hết về các quan ngại của họ. Có lẽ chúng ta nên xem vở
diễn này như là một trường hợp về “Trung Quốc thiếu năng lực” trên cơ sở
là việc vạch ra chính sách đối ngoại của họ thực sự là không thật tốt.
Bill Hayton là tác giả quyển sách “Việt Nam: con rồng đang lên”
(NXB Yale, 2010) và “Biển Đông và cuộc đấu tranh giành quyền lực ở châu
Á” được Yale xuất bản trong tháng 9 [năm 2010].
Nguồn: Asia Sentinel