HÀ NỘI 25-5 (NV) - Đó
là thông tin do bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều
ước Quốc tế của Bộ Ngoại Giao Việt Nam, xác nhận khi tham dự họp báo hôm
23 tháng 5-2014.
Tòa án Công lý Quốc tế là một trong hai nơi mà Việt Nam có thể kiện Trung Quốc trong vụ tranh chấp Biển Đông. (Hình: Internet) |
Trả lời báo giới trong cuộc họp báo quốc tế do Bộ Ngoại Giao Việt Nam
tổ chức ở Hà Nội, bà Hà khẳng định, Việt Nam đã sẵn sàng để có thể kiện
Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào thăm dò dầu khí trong vùng biển
thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Nhân vật hiện là Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế của Bộ
Ngoại giao Việt Nam lặp lại tuyên bố trước đó của ông Nguyễn Tấn Dũng
tại Philippines, đó là “không loại trừ việc sử dụng bất cứ biện pháp hòa
bình nào để giải quyết tranh chấp”, nhằm trả lời cho những câu hỏi Việt
Nam sẽ làm gì khi mâu thuẫn Việt – Trung về chủ quyền gia tăng.
Bà Hà xác nhận, với vai trò tư vấn pháp lý cho chính phủ Việt Nam, cơ
quan của bà đã chuẩn bị sẵn mọi biện pháp có thể sử dụng được để phục
vụ cho yêu cầu của chính phủ Việt Nam. Theo đó, với tư cách là một quốc
gia thành viên của Liên Hiệp Quốc, thành viên Công ước Luật Biển 1982,
Việt Nam có quyền sử dụng tất cả các cơ chế giải quyết tranh chấp được
quy định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Công ước Luật Biển 1982 để
giải quyết tranh chấp liên quan đến mình.
Việc sử dụng giải pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bao gồm cả
khả năng sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế mà Hiến chương Liên Hiệp
Quốc và Công ước Luật Biển 1982 đề cập. Bà Hà nhấn mạnh, “Việt Nam cho
rằng, sử dụng biện pháp pháp lý sẽ tốt hơn là để xảy ra xung đột vũ
trang”.
Tuy nhiên Vụ trưởng Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế của Bộ Ngoại
giao Việt Nam không cho biết lúc nào chính quyền Việt Nam sẽ nộp đơn
kiện. Bà ta chỉ trả lời một cách chung chung rằng, chính bà ta cũng luôn
tự hỏi lúc nào là thời điểm thích hợp và “quyết định là của chính phủ”.
Tại cuộc họp báo vừa kể, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên
giới quốc gia của Việt Nam, đã trưng ra nhiều bằng chứng lịch sử và cơ
sở pháp lý để khẳng định Việt Nam có chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa để bác bỏ những thông tin mà ông Hải gọi là “sai
lệch do phía Trung Quốc đưa ra nhằm bóp méo vụ việc, trong đó có việc
viện dẫn sai lệch công hàm do ông Phạm Văn Đồng, Thủ tướng Việt Nam ký
năm 1958.
Ông Hải giải thích, công hàm đó hoàn toàn không đề cập đến vấn đề
lãnh thổ và chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trên
thực tế, lúc đó, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm bên dưới vĩ
tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa, vốn đã được Pháp
chuyển giao trên thực tế vào năm 1956, phù hợp với Hiệp Định Geneva năm
1954 mà Trung Quốc cũng là một bên tham gia.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia của Việt Nam khẳng định rằng,
việc gần đây Trung Quốc luôn nói Hoàng Sa không có tranh chấp là ngược
với quan điểm các lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc.
Theo ông Hải, hồi tháng 9 năm 1975, khi trao đổi với ông Lê Duẩn, lúc
đó là Bí thư thứ nhất Đảng Lao Động Việt Nam, ông Đặng Tiểu Bình, lúc
đó là Phó Thủ tướng Trung Quốc, đã thừa nhận giữa hai nước có tranh chấp
về hai quần đảo và hai bên “có thể bàn bạc với nhau”. Ý kiến của ông
Đặng Tiểu Bình đã được ghi lại trong Bị vong lục của Bộ Ngoại Giao Trung
Quốc ngày 12 tháng 5 năm 1988, đã đăng trên Nhân dân Nhật Báo. (G.Đ.)