Trường Sơn
Không chỉ giàn khoan 981 sừng sững, cả một hạm đội nhỏ của Trung Quốc
lao vào “vùng tranh chấp lãnh hải” và những tin tức ban đầu về 5 sư
đoàn thiết giáp được Bắc Kinh điều động áp sát biên giới phía Bắc Việt
Nam rất có thể đã xúc tác cho động tác đối ngoại dứt khoát hơn của giới
lãnh đạo Hà Nội, hay khiêm tốn hơn là “một bộ phận” trong giới lãnh đạo
đang ngổn ngang ý thức hệ về hướng nhìn ngoại bang.
Trong tuần này, sau cuộc tổng biểu tình thất bại của công dân và
cuộc đàn áp tổng biểu tình thành công của chính quyền, người ta đã chứng
kiến vài phản ứng dè dặt đầu tiên của những người vẫn quen im lặng.
Quốc hội Việt Nam là trường hợp tiêu biểu nhất.
Trong một diễn biến được xem là chịu sức ép rất lớn từ dư luận nhân
dân và cử tri cả nước, Quốc hội đã đưa ra bản tuyên bố về “Trung Quốc vi
phạm nghiêm trọng chủ quyền”. Có thể ghi nhận rằng từ rất nhiều năm
qua, gần 500 đại biểu quốc hội mới thể hiện tính nhất trí an ủi đối với
một vấn đề cực kỳ thiết thân đến vận mạng quốc gia và cũng với sinh mạng
chính trị của toàn bộ giới chính khách Việt Nam. Sau tín hiệu xâm lăng
của giàn khoan 981 và cho đến lúc này, chắc hẳn không mấy quan chức – kể
cả những người bị xem là thân thiết nhất với Bắc Kinh – còn mơ màng về
chuyện sẽ thu xếp được một kết quả có hậu với người Hán. Ngược lại, linh
cảm rất gần về một tai họa khủng khiếp và gần gũi không kém lại đang ập
đến.
Ai cũng thừa hiểu rằng nước mất sẽ tan nhà. Và như bài học lịch sử
ngàn năm bắc thuộc còn thảm thiết lưu truyền, vua chúa nước Nam cùng lắm
chỉ còn “ngựa xe vài cỗ, quân hầu lơ thơ”.
Tình thế ngàn cân như thế đã khiến giới quan sát không quá ngạc
nhiên khi tiếp tục chứng kiến những bước đi dạn dĩ hơn trong phong trào
“xoay trục” sang phương Tây. Tại Diễn đàn kinh tế thế giới ở Manila,
Philippines, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã trở thành chính khách cao cấp
đầu tiên của Việt Nam thể hiện đôi chút chính kiến về vấn đề biển Đông.
Lần đầu tiên vị thủ tướng quen đọc diễn văn này dùng từ “viển vông” như
một cách hành văn nói trong tuyên ngôn nhắm tới “tình hữu nghị” với chế
độ độc đảng toàn trị Bắc Kinh.
Mặc dù đối với dư luận người dân trong nước, chừng đó chính kiến của
ông Dũng vẫn còn là quá ít so với áp suất khổng lồ mà Bắc Kinh đè nén
Việt Nam suốt nhiều năm qua, nhưng ít nhất đã không còn là một sự im
lặng đáng sợ kéo dài quá lâu của toàn bộ triều đình Hà Nội.
Lại “hợp tác hải quân”
Trong một động thái hầu như im lặng khác, Washington lại chẳng hề
vội vã biểu cảm trước tình cảm thúc bách của giới ngoại giao Việt Nam về
mối họa Trung Quốc. Không thể nói khác hơn là người Mỹ đã có quá đủ
kinh nghiệm về điều mà họ coi là bất nhất đối với Hà Nội từ sau sự kiện
Việt Nam được tham gia vào WTO và còn được dỡ bỏ khỏi danh sách các quốc
gia cần quan tâm đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo (CPC) vào năm 2007.
Đơn giản là nếu chính quyền của một trong những quốc gia bị coi là có
thành tích vi phạm nhân quyền nổi bật nhất thế giới không có được tối
thiểu vài ba bằng chứng “có thể chứng minh được” về thành tích cải thiện
nhân quyền, Hoa Kỳ sẽ chẳng có lý do gì để bênh vực họ, cho dù Trung
Quốc có thể tấn công Việt Nam vào bất cứ thời điểm nào.
Chỉ đến khi Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh – cấp phó trực tiếp
của lãnh đạo cao cấp được giới quan sát xem là có đầu óc “cải cách” nhất
là ông Nguyễn Tấn Dũng – tổ chức cuộc điện đàm với ngoại trưởng Mỹ John
Kerry và còn được một số báo chí nhà nước đưa tin, hiệu nghiệm của liều
thuốc Phòng bầu dục mới bắt đầu tác dụng: hầu như nay lập tức, Phạm
Bình Minh được Bộ ngoại giao Hoa Kỳ mời viếng thăm đất nước của Hạm đội
7.
Giới quan sát quốc tế cũng hẳn không quên chỉ trước cuộc điện đàm
trên ít ngày, tư lệnh hạm đội 7 của Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương đã bắn
tin trên Reuters về khả năng “Hải quân Mỹ sẵn sàng hợp tác với hải quân
Việt Nam”. Lần ngược về quá khứ, hải quân hai nước này đã có mối quan hệ
giao lưu từ tháng 4/2013 tại Đà Nẵng. Tuy nhiên, điều khó hiểu là từ đó
đến nay vẫn chỉ là vài sự kiện nhỏ nhoi, chỉ là lượng tàu chiến đếm
trên bàn tay của Mỹ thăm viếng Việt Nam – một con số quá nhỏ so với hơn
100 tàu Trung Quốc luôn lờn vờn bên cạnh giàn khoan HD 981.
Phạm Bình Minh sẽ đến Mỹ, đó là điều hầu như chắc chắn. Và có lẽ đến
lúc đó, sự im lặng của người Mỹ mới trở nên có âm hưởng. Cùng với tiếng
nói đầu tiên của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Manila về “tình hữu nghị
viển vông” với Trung Quốc, hẳn điều mà chính giới Việt Nam thật sự mong
đợi là một bản hiệp ước tương trợ quốc phòng giữa họ với Mỹ, như kết
quả rất đáng khích lệ mà Philippines đã thu hoạch ngay sau chuyến công
du của Tổng thống Barak Obama đến nước này vào cuối tháng 4/2014.
Chỉ một hiệp ước quân sự với Hoa Kỳ mới đủ sức kềm giữ lòng tham của người “Láng giếng tốt”.
Chỉ bằng vào sự có mặt của hạm đội 7, hải quân Việt Nam mới có thể
tự tin hơn trong cuộc đối đầu với hải quân và tàu ngầm Trung Quốc, mới
có hy vọng giữ được các vị trí tiền tiêu ở Đà Nẵng và Cam Ranh mà không
bị đẩy sâu vào đất liền.
“Đối tác toàn diện chiến lược”?
Chỉ với quan hệ thiết thực và nhất thiết phải thành tâm với Mỹ, giới
chính khách cô đơn ở Việt Nam mới có thể lôi kéo được sự quan tâm phần
nào của Liên minh châu Âu và cộng đồng thế giới nói chung.
Trong một tín hiệu mới nhất, không phải Nhà Trắng mà lại là tư lệnh
quân đội Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương bắn tiếng rằng “Mỹ muốn
hợp tác chiến lược với Việt Nam”. Không cần diễn giải quá nhiều, giới
quan sát đều thừa hiểu giới chính khách Việt đang ngả sang phương Tây
mong đợi đến thế nào mức hợp tác hấp dẫn này, trong khi trước đó chỉ là
cấp “đối tác toàn diện” mà chẳng mấy có ý nghĩa tương hỗ quân sự.
Những động tác thực và giả diễn ra liên tục từ phía Trung quốc vừa
qua và trong thời gian tới, cùng với động thái “xoay trục” sang phương
Tây của một bộ phận giới lãnh đạo Việt Nam, sẽ cho thấy những tuần lễ
tới có thể đầy ắp tin tức hấp lực, cơ hội cùng rủi ro cho bất kỳ phe
phái nào và chính khách nào ở Việt Nam.
Thậm chí đến một lúc nào đó, tinh thần biểu tình của nhân dân đã
từng bị chính quyền ngăn cấm thô bạo sẽ có cơ may được chính giới lãnh
đạo khẩn thiết “kêu gọi”.
T.S