Nguyễn Lễ
Các đợt xuống đường của người dân Việt Nam có thổi bay cái giàn khoan của Trung Quốc khỏi Biển Đông?
Câu trả lời, nhiều khả năng, là ‘Không’.
Ít nhất những diễn biến trên thực địa cùng với những tuyên bố cứng
rắn cho đến giờ cho thấy Trung Quốc quyết không lùi một bước.
Tôi không rành về khai thác dầu khí nhưng theo lý mà suy thì chừng
nào xong việc mới rút giàn khoan chứ làm sao biết được sẽ rút ngày nào?
Nhưng nếu Bắc Kinh không công bố trước thời hạn rút giàn khoan thì
bất cứ lúc nào họ rút đi cũng sẽ bị cho là chịu thua sức ép của Việt
Nam.
Đưa giàn khoan ra Biển Đông, Bắc Kinh muốn quyết tâm khẳng định với
thế giới rằng vùng biển xung quanh đó thuộc chủ quyền của họ.
Nhưng tại sao họ lại ra tay vào lúc này? Giàn khoan Hải Dương 981 là
cách mà họ thách thức cam kết ‘xoay trục’ mà Tổng thống Mỹ Barack
Obama vừa khẳng định với các đồng minh.
Obama vừa mới lên tiếng Senkaku nằm trong phạm vi hiệp ước an
ninh với Nhật và Manila cũng vừa ký với Mỹ Hiệp ước tăng cường liên
minh quân sự. Kiếm chuyện với Tokyo hay Manila khi Obama vừa rời đi thì
quá 'bựa'.
Để thách thức Mỹ nhưng vẫn tránh đối đầu trực diện, Bắc Kinh chọn mục tiêu mềm hơn là Hà Nội.
Nước cờ chắc ăn
Với lại khi có hành động mà Bắc Kinh biết rằng sẽ bị thách thức dữ dội thì họ phải chọn nước cờ chắc ăn nhất.
Họ không chọn vùng biển xung quanh các đảo mà họ đang nắm giữ ở
Trường Sa hoặc một vị trí nào khác trong Biển Đông mà họ biết sẽ rủi ro
hơn rất nhiều.
Quần đảo Hoàng Sa chỉ có tranh chấp với Việt Nam, trong khi Trung
Quốc còn không thừa nhận là có tranh chấp và lâu nay vẫn cự tuyệt mọi đề
xuất đàm phán của Hà Nội.
Về mặt thực tế, ‘Tây Sa’ đã nằm hoàn toàn trong tay Trung Quốc và
cách nay không lâu họ còn gióng trống mở cờ thành lập thành phố ‘Tam Sa’
đóng trên quần đảo này.
Tổng thống Mỹ Obama vừa cam kết với các đồng minh châu Á về chính sách 'xoay trục'
Về mặt pháp lý, họ có ‘bửu bối’ là công hàm Phạm Văn Đồng mà nếu Hà Nội có cãi lý thì họ sẽ dùng để đập lại.
Họ kiểm soát, họ không thừa nhận có tranh chấp, họ có bằng chứng Hà
Nội ‘công nhận chủ quyền’, rõ ràng Bắc Kinh rất tự tin với ‘chủ quyền
Tây Sa’ nên họ mới đưa giàn khoan ra đây.
Nếu Việt Nam có nói là giàn khoan nằm trong vùng đặc quyền kinh tế
của mình thì Trung Quốc sẽ cãi rằng giàn khoan này nằm cách ‘Tây Sa,
lãnh thổ của họ’ chỉ 17 hải lý trong khi cách bờ biển Việt Nam đến 150
hải lý.
Trên thực tế đó là kịch bản mà báo chí và các quan chức Trung Quốc đã nói trong những ngày qua.
Một khi có bước đi liều lĩnh như thế chắc chắn Bắc Kinh đã tính toán hết mọi rủi ro mới dám thực hiện.
Nhìn vào động tĩnh của Trung Quốc trong những ngày qua thì sẽ thấy
họ theo dõi chặt chẽ phản ứng của Việt Nam, của khối Asean và của Mỹ.
Ngay cả khi phản ứng chính thức của Mỹ chỉ dừng ở mức ‘quan ngại’ và
chỉ trích Trung Quốc ‘gia tăng căng thẳng’ thì Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình đã phủ đầu với tuyên bố ở Thượng Hải rằng ‘các thế lực bên
ngoài không được can thiệp’ và ‘chống lập liên minh quân sự nhằm vào bên
thứ ba’.
Còn với Asean, mặc dù còn không nêu tên Trung Quốc mà chỉ bày tỏ
‘quan ngại’ nhưng Trung Quốc đã rất nhanh chóng lấy quan hệ chung để
nhắc nhở Asean không được dính vào tranh chấp riêng và cảnh báo Hà Nội
về việc ‘lôi kéo’ Asean.
Làm chủ tình hình
Phản ứng mạnh mẽ của Việt Nam chắc chắn cũng đã nằm trong dự liệu của Trung Quốc.
Các lãnh đạo Asean không muốn mất lòng Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông
Mỹ can thiệp, Asean dính líu và Việt Nam ngả về phía Mỹ là ba nỗi sợ của Bắc Kinh khi đưa giàn khoan HD-981 ra Biển Đông.
Về phía Mỹ thì Bắc Kinh biết rõ vào lúc này Washington không thể làm được gì nhiều để giúp Hà Nội ngoài hỗ trợ tinh thần.
Về phía Asean thì Bắc Kinh biết rằng với tư cách là đối tác thương
mại lớn nhất của khối, các nước Asean sẽ hết sức thận trọng để tránh làm
tổn thương quan hệ với Trung Quốc.
Về phía Việt Nam, với quan hệ khắng khít giữa hai Đảng Cộng sản
trong những năm qua, Bắc Kinh chắc hẳn nắm rõ suy nghĩ của Hà Nội.
Điều Bắc Kinh sợ nhất là Hà Nội ngả về phía Washington để họ thêm
một mối họa ở phía Nam, nhưng một khi họ đã đưa giàn khoan ra thì có
nghĩa họ tin rằng Hà Nội dù có bị o ép thế nào đi nữa thì cũng không tìm
kiếm liên minh với Mỹ
Chỉ có điều với hành động này thì họ đã hủy hoại quan hệ với Việt
Nam. Việt Nam sẽ không còn là ‘láng giềng thân thiện’ với Trung Quốc
được nữa. Tuy nhiên, vì mục đích lớn ở Biển Đông, Bắc Kinh sẵn sàng hy
sinh.
Trong cái mục đích lớn đó, đảo thì họ đã nắm được một phần
nhưng đường lưỡi bò thì đây mới là bước đi quan trọng đầu tiên để hiện
thực hóa.
Nếu như Trung Quốc lùi trước sức ép của Việt Nam thì trước mắt người
dân trong nước chính quyền là hèn nhát không đủ sức bảo vệ chủ quyền,
trước dư luận quốc tế lập luận chủ quyền của họ không vững và nhất là
đường lưỡi bò mới tiến được một bước đã phải lùi thì sau này sẽ vô vàn
khó khăn.
Biển Đông là cánh cửa để Trung Quốc bành trướng ra ngoài và là chìa
khóa để làm bá chủ ở Đông Á nhất là khi họ đã bị chặn bởi các nước
lớn khác ở các hướng bắc, đông và tây nam.
Trung Quốc đang muốn biến đường lưỡi bò trên bản đồ thành sự thật
Chậm mà chắc
Năm 1947, đường lưỡi bò lần đầu tiên xuất hiện trên bản đồ Trung Hoa.
Lúc đó, người Trung Quốc còn chưa có gì trên Biển Đông. Gần 70 năm
sau, họ đã có ‘thành phố Tam Sa’ – tức là đã có chỗ đứng vững chắc để
từ đó vươn ra Biển Đông.
Ai dám chắc sau 70 năm hoặc 100 năm nữa toàn bộ Biển Đông không trở thành ao nhà của Trung Quốc?
Từ chỗ không có gì đến có được như thế phải thấy tầm nhìn và sự khôn
ngoan của Trung Quốc trên Biển Đông: họ xác định đó là công việc lâu
dài, tiến dần từng bước một, tranh thủ thời cơ, sẵn sàng dùng vũ lực,
sức mạnh đến đâu hiện thực chủ quyền đến đó.
Mặc dù có yêu sách đường chín đoạn từ rất lâu nhưng phải đến tận năm
2009 họ mới chính thức trình ra quốc tế. Chứng tỏ Bắc Kinh giỏi giấu
mình chờ thời cơ đến mức nào.
Tuy nhiên điều này cũng cho thấy sự không trong sáng trong đòi hỏi
chủ quyền của họ. Nếu có chủ quyền thật sự thì cần gì đợi thời cơ mới
đưa ra?
Và cái cách mà họ vẽ đường chín đoạn trong tất cả các bản đồ của họ
hiện nay, mặc dù chỉ là chủ quyền trên giấy, là nhằm in sâu vào tâm trí
mọi người để rồi đến lúc ai cũng mặc nhiên thừa nhận ‘chủ quyền không
thể chối cãi’ của Trung Quốc.
Họ cũng rất biết lợi dụng tình hình khi tranh thủ tối đa những lúc
Việt Nam rối ren hay gặp tình hình quốc tế bất lợi để ra tay chiếm đảo.
Với một đất nước đã quen với ván cờ quyền lực và đấu tranh chính trị
trong hàng ngàn năm thì Việt Nam không phải là đối thủ của họ trong
cuộc đấu trí trên Biển Đông.
Họ có tầm nhìn cả trăm năm, có chiến lược thực hiện rõ ràng và nhất
là luôn ở thế tấn công trong khi Việt Nam nằm ở thế bị động chống đỡ các
bước đi của họ.
Trước phía nhiều mưu chước như Trung Quốc, Việt Nam chẳng khác nào một đứa trẻ ngây ngô liên tục bị gài bẫy.
Cái bẫy lớn nhất chính là công hàm năm 1958 công nhận Tuyên bố về
lãnh hải của Trung Quốc mà trong Tuyên bố này có khẳng định chủ quyền
đối với ‘Tây Sa’ và ‘Nam Sa’.
Bắc Việt lúc đó chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt là sự giúp đỡ của
Trung Quốc chứ không lường được cái hại sau này trong khi Trung Quốc mưu
tính chuyện lâu dài về sau.
Công luận quốc tế không cần biết ông Đồng suy nghĩ thế nào hay bối
cảnh ra sao khi ky cái công hàm đó. Chỉ biết giấy trắng mực đen rành
rành Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc.
Đành rằng ông Đồng không thể đem cho cái mà Chính phủ của ông không
có, nhưng ông có thể thừa nhận quyền sở hữu của người khác đối với tài
sản mà ông không có đó.
Và khi đã thừa nhận của người khác thì bây giờ sao lại nói ngược là của mình được?
Rõ ràng Việt Nam tin vào tình đồng chí còn Trung Quốc đã lợi dụng tình đồng chí đó.
Quan hệ quốc tế luôn dựa trên nền tảng lợi ích quốc gia - không có
chỗ cho ‘tinh thần quốc tế vô sản trong sáng’. Bắc Kinh đã không đổ
xương máu cho Hà Nội nếu không có lợi ích của mình trong đó.
Bắc Việt đã quá ngây thơ khi tin tưởng người đồng chí phương Bắc hơn
đồng bào của mình ở miền Nam. Họ đã để y thức hệ chi phối chính sách
ngoại giao của mình.
Chính vì ý thức hệ mà khi Việt Nam hụt hẫng sau khi Liên Xô sụp đổ
đã bất chấp những kinh nghiệm đau thương trong quá khứ lại tìm đến Trung
Quốc làm chỗ dựa. Và đất nước lại bị đặt trước miệng cọp.
Cũng vì ý thức hệ mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi sang thăm
Trung Quốc đã chấp nhận lời khuyên lấy ‘đại cục’ làm trọng, tức là đặt
lên trên tranh chấp.
Khi đưa giàn khoan ra Biển Đông, Bắc Kinh có nghĩ đến ‘đại cục’ không?
Rõ ràng ‘đại cục’ đó không phải để ràng buộc Bắc Kinh mà là để Bắc Kinh ràng buộc Hà Nội.
Thậm chí khi Bắc Kinh đã phá vỡ cam kết của lãnh đạo hai Đảng thì
Thường Vạn Toàn vẫn tự tin nhắc nhở Phùng Quang Thanh về ‘đại cục’.
Và cho đến giờ cũng chính y thức hệ đã khiến Việt Nam mắc kẹt trong
‘đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không liên minh với ai’
Mạnh như Nhật mà còn cần hiệp ước an ninh với Mỹ, có vũ khí hạt nhân như Anh, Pháp vẫn cần Mỹ đồng minh trong khối Nato.
Trong khi đó, Việt Nam hiện nay vừa nhỏ yếu vừa bị đe dọa nghiêm
trọng thì cứ nói là ‘độc lập, tự chủ’ mà thực ra chỉ thiệt cho
mình mà thôi.
Thử cho Mỹ vào Cam Ranh xem? Bắc Kinh không sợ mới lạ.
Mỹ rất muốn nhưng Việt Nam ‘độc lập, tự chủ’ không làm được.
Chính vì thế Việt Nam mất đi một lá bài lợi hại trong cuộc đối đầu vốn dĩ không cân sức.