Trần Hoàng
Trong những năm gần đây, đặc biệt là trong tháng này, người ta thấy
Nga và Trung Quốc có vẻ ngày càng thân thiện hơn, gần gũi hơn. Quan hệ
song phương giữa hai nước được chính phủ hai nước này đánh giá là “tốt
đẹp chưa từng có”. Quả thật, hai quốc gia lớn này đã không ngừng tăng
cường cộng tác trong tất cả các lĩnh vực như kinh tế, tài chính, an
ninh, ngoại giao, quân sự, năng lượng v..v. Trong lúc hải quân hai nước
đang có một cuộc tập trận chung trên Biển Hoa Đông những ngày này thì
Tổng thống Nga Vladimir Putin có chuyến đi thăm chính thức Trung Quốc
nhân dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ tư về phối hợp hành động và các
biện pháp củng cố lòng tin ở châu Á (CICA). Hai bên đã dành cho nhau
những lời lẽ đặc biệt tốt đẹp, ông Putin nhận xét về Trung Quốc là
“người bạn tin cậy của Nga” và thêm rằng hai quốc gia đã đạt tới một
giai đoạn mới trong quan hệ song phương và quân sự. Còn ông Tập Cận
Bình, người đã tới Moskva trong chuyến đi công du nước ngoài đầu tiên
của mình từ khi trở thành Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào
tháng Ba năm ngoái thì hứa hẹn một hợp tác chiến lược với Nga.
Tuy nhiên, có những nhìn nhận cho thấy thực chất “tình bạn tin cậy”
giữa hai cường quốc này không được tốt đẹp, hữu hảo như những biểu hiện
bề ngoài. Có một số căng thẳng đáng nói trong mối quan hệ giữa họ.
Trong cuốn Theo dõi an ninh toàn cầu – Trung Quốc (Global Security Watch – China) xuất bản vào tháng 7 năm 2013, một cuốn sách trong bộ Theo dõi an ninh toàn cầu
của Nhà xuất bản Praeger, tác giả Richard Weitz đã đặt chú trọng vào
việc xem xét các chính sách ngoại giao và quốc phòng có tính nguyên tắc
của Trung Quốc. Nhiều thí dụ được nêu ra trong cuốn sách này khiến cho
độc giả phải suy nghĩ về bản chất mối quan hệ Nga-Trung: đó là một liên
minh chiến thuật hay cộng tác chiến lược? Nêu ra ở đây một thí dụ khá
điển hình: Ai cũng biết là trong nhiều thập kỷ, Nga đã sẵn lòng bán cho
Trung Quốc nhiều hệ thống vũ khí trọn bộ, bao gồm các tàu chiến, tên lửa
phòng không tối tân… Nhưng Trung Quốc đã không chỉ còn là người mua
công nghệ quân sự mà đang dần dần xâm nhập vào thị trường cung cấp vũ
khí hiện đại. Ở Trung Cận Đông, Trung Quốc đã có cạnh tranh trực tiếp
với Nga, tìm cách bán vũ khí tối tân cho các nước trong khu vực này. Khi
Mỹ và Israel tìm cách phong tỏa Nga trước một hợp đồng tên lửa đất đối
không S-300 béo bở với Iran, và Tổng thống Nga Dmitry Medvedev ký sắc
lệnh ngừng bán mặt hàng này cho Iran tháng 9 năm 2010, Trung Quốc đã
nhảy vào cuộc, mời bán cho Iran một phiên bản riêng S-300 của nước này
nhưng không thành công. Có nhiều những thí dụ tương tự như vậy.
Ông Weitz nhắc lại cho người đọc rằng về mặt lịch sử, quan hệ
Nga-Trung được đặc trưng bởi những cuộc chiến tranh đẫm máu, các cuộc
xâm lấn đế chế và lên án, tố cáo lẫn nhau. Nghi ngờ sâu sắc tiếp tục
hiện hình trong thời Xô-viết, đặc biệt là trong thời kỳ Nikita
Khrushchev nắm quyền lực ở Nga. Cuộc chia tay Nga-Trung vào năm 1961
được tiếp nối bởi cuộc chiến tranh biên giới giữa hai nước năm 1969.
Ngay cả tới những năm 70 và 80 thế kỷ trước, quan hệ giữa hai quốc gia
cộng sản cũng không được mấy tốt đẹp.
Tuy nhiên, thời thế thay đổi, cũng tương tự như những bất đối xứng
quyền lực. Từ năm 2001, khi Nga và Trung Quốc ký kết Hiệp ước Hữu nghị
và Cộng tác, quan hệ song phương tiến triển và nâng cấp thành cái mà ông
Weitz gọi là “tạm ước hài hòa”. Cho tới năm 2008, Trung Quốc và Nga đã
cùng vạch định những đoạn cuối cùng trên đường biên giới chung dài nhất
thế giới 4300 km của họ.
Điểm tương đồng cơ bản giữa Nga và Trung Quốc là ở chỗ chính sách
ngoại giao của họ có chung vấn đề trung tâm: làm thế nào với vai trò bá
chủ đơn phương của Mỹ. Vì thế nội dung then chốt trong chính sách đối
ngoại của cả hai nước này là mong muốn, tìm cách xây một thế giới đa
cực. Chính điều này là yếu tố quyết định, nếu không muốn nói là duy
nhất, khiến hai quốc gia này tăng cường cộng tác với nhau trong những
năm qua. Nga và Trung Quốc hoàn toàn không có điểm chung xét theo khía
cạnh tư tưởng. Người Nga luôn coi mình là dân tộc châu Âu, có định hướng
tương lai ở châu Âu, có các câu hỏi, vấn đề sống còn, cốt lõi ở phương
Tây. Trung Quốc tự coi mình là cường quốc đang lên không chỉ ở châu Á mà
còn trên phạm vi toàn thế giới, dường như họ có nhìn nhận rằng Nga là
cường quốc của quá khứ, ngày càng đi xuống, ngày càng mất đi chỗ đứng
trên trường quốc tế.
Hệ quả là các mối quan hệ, cộng tác giữa hai cường quốc này có tính
chiến thuật hơn là chiến lược, phát triển trong mối tương quan với việc
theo đuổi các mối quan tâm, lợi ích ngắn hạn. Chúng có thể nhanh chóng
thay đổi hướng diễn biến, các nhân tố làm thay đổi hướng diễn biến chính
là các yếu tố chính trị, kinh tế và xã hội tiềm ẩn trong hai quốc gia
này, và thêm vào đó nhưng không kém phần quan trọng là các chính sách,
chiến lược, suy tính địa chính trị toàn cầu của Mỹ.
Ông Bobo Lo, chuyên gia về quan hệ Nga-Trung, giám đốc phụ trách các
chương trình nghiên cứu về Nga và Trung Quốc của Viện Chính sách Trung
tâm Cải cách châu Âu (CER) quả thật rất có lý khi gọi bộ đôi Nga, Trung
Quốc là “trục của sự tiện lợi” trong một bài phỏng vấn có tựa đề “Nga –
Trung: Trục của sự tiện lợi” (Russia-China: Axis of Convenience) đăng trên trang điện tử openDemocracy ngày 20.5.2008.
Một cách đơn giản, chỉ cần xem xét các thực tế cơ bản – Trung Quốc
hiện đang có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, nhưng vẫn giữ được
tốc độ tăng trưởng rất cao, có lượng dân số khổng lồ vẫn đang gia tăng,
lại có tham vọng đánh bật Mỹ khỏi vị trí bá chủ thế giới; Nga thì có nền
kinh tế lớn thứ mười trên thế giới, nhưng tốc độ tăng trưởng đang chững
lại một cách đáng lo ngại, dân số chỉ bằng khoảng một phần tám dân số
Trung Quốc nhưng lại đang giảm và già đi, tuy vậy lại có quân đội và nền
kỹ thuật quân sự trội hơn nhiều so với Trung Quốc, lại cũng không giấu
giếm tham vọng khôi phục vị trí cường quốc xứng đáng trên trường quốc tế
– thì sẽ thấy trong quan hệ hai nước, khả năng bất hòa là cao hơn so
với khả năng hữu hảo.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi khái niệm “frenemies” (kẻ thù giả bộ bạn bè) càng ngày càng được dùng nhiều hơn để chỉ cặp đôi Nga-Trung Quốc (thí dụ xem bài “Best frenemies” đăng trên The Economist ngày 24.5.2014).
Những điểm căng thẳng nổi bật nhất trong quan hệ Nga – Trung có thể
kể đến: Trung Á, Viễn Đông và châu Á-Thái Bình Dương (ngoài Viễn Đông).
1. Trung Á
Trong thời gian gần đây, có thể nhận biết ngày càng rõ là người Nga
nói chung, đặc biệt là ông Putin nói riêng, chứa sâu trong tâm tư một
hội chứng về sự tan rã của Liên bang Xô-viết. Người Nga coi đó là một
sai lầm không dễ tha thứ và không ngừng mong muốn và nuôi hy vọng khôi
phục lại một “nước Nga vĩ đại”. Điều này lý giải những nỗ lực không
ngừng nghỉ của giới hoạch định đường lối, chiến lược chính trị nước này
trong việc tìm cách khôi phục và tăng cường vị thế và ảnh hưởng của Nga ở
các quốc gia thuộc Liên bang Xô-viết cũ. Ukraine là một thí dụ gần đây
nhất và gây nhiều ngạc nhiên, ấn tượng nhất.
Kể từ khi Liên bang Xô-viết tan rã năm 1991, Nga đã tìm cách thông
qua nhiều hiệp ước chính trị, an ninh và kinh tế khác nhau để phục hồi
sự kiểm soát của mình với các nước cộng hòa Trung Á. Hiệp ước đầu tiên
như thế, đồng thời được biết tới nhiều nhất, là Cộng đồng các Quốc gia
Độc lập gồm 12 nước cộng hòa mới độc lập, được thành lập năm 1991. Tiếp
theo là một loạt các hiệp ước thương mại, kinh tế như hiệp ước thành lập
Liên minh Thuế quan (1995), Cộng đồng Kinh tế Âu Á (Eurasia) (2000),
Liên minh Âu Á (2011). Tháng 10 năm 2002, Tổ chức Hiệp định An ninh Tập
thể (SCTO), một liên minh quân sự, đã được Nga cùng 5 nước Trung Á khác
ký kết thành lập… Ý tưởng một cộng đồng chung cho khu vực ngày càng phát
triển và từ năm 2013, các đợt hội đàm nhằm thành lập và mở rộng Cộng
đồng Kinh tế Âu Á và Liên minh Âu Á được tiến hành, cho phép mở rộng cửa
cho các quốc gia nằm ngoài biên giới Trung Á.
Các phân tích của hai ông Baktybek Beshimov và Ryskeldi Satke trong
bài viết có tựa đề “Cuộc đấu giành Trung Á: Nga vs Trung Quốc” (The struggle for Central Asia: Russia vs China) đăng trên trang Aljazeera ngày 12.3.2014 cho biết:
“Tấn công kinh tế của Điện Kremlin là nhằm mục đích kiềm chế giới
lãnh đạo ở Trung Á đang ngày càng trở nên độc lập hơn. Ảnh hưởng của Nga
ngày một tăng ở các nước Trung Á nghèo nhất như Kyrgyzstan và
Tajikistan, nhưng lại giảm sút ở các nước giàu nhất như Kazakhstan hay
Uzbekistan. Dự án địa chính trị của Nga ở Trung Á đang đối mặt với nhiều
khó khăn hơn khi những đối thủ từ phía Đông (Trung Quốc) và từ phía Nam
(Thổ Nhĩ Kỳ) xuất hiện, thách thức sức mạnh của Nga trong vùng… Có lẽ
dự án hội nhập khu vực của ông Putin không ngăn chặn, mà thậm chí còn mở
đường cho sự bành trướng kinh tế toàn diện của Trung Quốc. Trong khi
Nga cần các nước Trung Á thuộc Liên minh Thuế quan nhằm duy trì sự hiện
diện địa chính trị của mình thì Trung Quốc theo đuổi các lợi ích kinh
tế. Nga dựa vào sức mạnh quân sự và sức mạnh mềm truyền thống của mình
trong vùng, còn Trung Quốc dùng con bài tài chính.”
Vì thế, theo hai tác giả trên, “Bắc Kinh kiềm chế không xung đột lợi
ích với Nga (ngược lại với quan điểm diều hâu của nước này ở Đông và
Đông Nam Á), các nhà thiết kế chính sách Trung Quốc chắc hẳn muốn lợi
dụng những sai lầm và khả năng hạn chế của Kremlin.”
Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (STO), tổ chức an ninh chung liên chính
phủ do Trung Quốc khởi xướng thành lập năm 1996, đã được Trung Quốc sử
dụng triệt để cho các mục đích của họ ở Trung Á. Dưới ô che của tổ chức
này, Trung Quốc có thể dễ nói hơn khi tự gọi mình là một thành viên
trong khu vực.
Trong lĩnh vực thương mại, Trung Quốc hiện đã bỏ xa Nga, trở thành
bạn hàng chủ yếu đối với tất cả các nước Trung Á thuộc Liên bang Xô-viết
cũ, chỉ trừ Uzbekistan, nơi Trung Quốc chịu xếp thứ hai. Không những
đẩy mạnh thương mại, Trung Quốc còn tăng cường đầu tư trực tiếp vào các
láng giềng xa gần của mình ở Trung Á, trở thành một trong những nguồn
cung cấp đầu tư nước ngoài chủ yếu của các nước này. Trung Quốc đã và
đang thực hiện những dự án kinh tế lớn, điển hình là các dự án khai
thác, xây dựng đường ống dẫn dầu và khí đốt, tinh lọc dầu khí, nông
nghiệp, cơ sở hạ tầng… trong khắp khu vực. Chỉ nửa năm sau khi chính
thức trở thành chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, vào tháng 9
năm 2013, ông Tập Cận Bình đã thực hiện đợt thăm chính thức bốn quốc gia
lớn nhất ở Trung Á là Turkmenistan, Kazakhstan, Uzbekistan và
Kyrgyzstan. Ông Tập đã đưa ra đề xuất thành lập và xây dựng cái gọi là
vành đai kinh tế “Con đường Tơ lụa” với Âu Á nhằm tạo ra các điều kiện
thuận lợi hơn cho đầu tư của Trung Quốc.
Giới quan sát cho rằng Trung Quốc hiện tại đang nắm thế thượng phong
trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng ở Trung Á, đẩy Nga vào thế bí. Đó không
chỉ là do tiềm năng kinh tế của họ hơn hẳn Nga mà còn vì cách tiếp cận
khôn ngoan của họ – khác với Nga, họ tránh không động chạm tới các công
việc chính trị nội bộ và tránh để các quốc gia đối tác có cảm giác bị
thiệt thòi về chủ quyền dân tộc – và xu hướng muốn thoát khỏi ảnh hưởng
của Nga trong các quốc gia nằm trong khu vực.
Tuy hiện có nhiều bất lợi, hiển nhiên là Nga sẽ không dễ dàng bỏ
cuộc, để Trung Quốc “nẫng” mất Trung Á, để khu vực này rơi sâu vào vòng
ảnh hưởng, tạm thời trước mắt là kinh tế của Trung Quốc. Theo như bài
viết “Cuộc đấu giành Trung Á: Nga vs Trung Quốc” nói tới ở trên thì Nga
đã có những nỗ lực mạnh mẽ phục hồi lại vị thế ở các nước Trung Á yếu
nhất như Kyrgzstan, Tajikistan, mở rộng sự có mặt về quân sự tại các
quốc gia này (thí dụ như chi 1,5 tỉ USD cho việc tái trang bị vũ khí cho
quân đội hai nước). Hiện tại, vị thế của Kremlin ở Kyrgyzstan và
Tajikistian được cho là khá vững chắc.
Cũng trong bài phỏng vấn đăng trên openDemocracy đã nhắc
tới ở trên, ông Bobo Lo, giám đốc phụ trách các chương trình nghiên cứu
về Nga và Trung Quốc thuộc Viện chính sách Trung tâm Cải cách châu Âu
CER cho biết: “Người Nga hiểu trò chơi của Trung Quốc, vì thế họ đã trở
nên thờ ơ với Tổ chức Hợp tác Thượng Hải STO. Với Trung Quốc, tổ chức
này có vai trò tương tự như Tổ chức Hiệp định An ninh Tập thể SCTO đối
với Nga. Tổ chức Hiệp định An ninh tập Thể, do Nga thành lập vào năm
2002 có một đặc tính tối cao theo cách nhìn của Moskva: Trung Quốc không
phải là thành viên. Tổ chức Hiệp định An ninh Tập thể giúp Nga tái
khẳng định ảnh hưởng ở Trung Á. Tổ chức Hợp tác Thượng Hải và Tổ chức
Hiệp định An ninh Tập thể thực chất là các tổ chức cạnh trạnh với nhau.”
Viễn Đông
Vùng Viễn Đông là một vùng đất rộng lớn nằm ở rìa phía Đông của nước
Nga, trải dài từ hồ Baikal ở phía Tây tới tận Thái Bình Dương ở phía
Đông. Tên gọi hành chính của vùng này là Vùng Liên bang Viễn Đông, nó
tiếp giáp với Vùng Liên bang Siberia không kém phần rộng lớn ở phía Tây.
Người Nga đã khai phá vùng đất này từ lâu đời, tới giữa thế kỷ 17 họ
tiến sát tới bờ Thái Bình Dương, thành lập thành phố Okhotsk, từ đó, đặc
biệt là trong thế kỷ 19, người Nga đã củng cố kiểm soát của họ ở Viễn
Đông.
Viễn Đông bao gồm một vùng địa lý đáng lưu ý tới, đó là vùng
Priamurye hay theo như cách người Trung Quốc cố tình gọi là Ngoại Mãn
Châu. Nga tiếp quản vùng này theo Hiệp ước Aigun (1858) và Hiệp ước Bắc
Kinh (1860) từ triều Mãn Thanh. Người Trung Quốc xếp hai hiệp ước này
vào nhóm các hiệp ước mà họ gọi là “bất bình đẳng” mà Trung Quốc buộc
phải ký kết với các nước phương Tây trong “thế kỷ nhục nhã”. Nên nhớ là
Bắc Kinh chưa bao giờ chính thức công nhận hai hiệp ước này.
Mãi đến một vài thập kỷ trước, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có yếu
tố địa lý và tập trung phát triển kinh tế ở các vùng trọng điểm trung
tâm, Nga không chú trọng nhiều tới vùng này. Về phía Trung Quốc thì sự
quan tâm của họ tới vùng này cũng chỉ bắt đầu trở nên rõ rệt khi nhu cầu
mở rộng địa bàn hoạt động kinh tế và nguồn cung cấp tài nguyên khoáng
sản trở nên cấp bách hơn.
Trong bài phân tích có tiêu đề “Viễn Đông của Nga đang dần trở thành của người Trung Quốc” (Analysis: Russia’s Far East Turning Chinese) đăng trên trang mạng ABC News
ngày 14.7.2013, tác giả Peter Zeihan cảnh báo: “Người Trung Quốc đang
xâm nhập nước Nga – không phải với xe tăng, mà với va ly hành lý”. Ông
Zeihan cho biết: “Không thể biết được chính xác lượng người Trung Quốc
di cư vào vùng Viễn Đông của Nga; Nga không tiến hành kiểm tra dân số
trong hơn một thập kỷ gần đây. Nhưng theo các dấu hiệu thì có một dòng
người đáng kể đang tràn qua biên giới”. Và tuy có chênh lệch lớn trong
số liệu dòng nhập cư từ Trung Quốc từ các nguồn khác nhau, nhưng “Cục
Xuất nhập cảnh Liên bang lo ngại một dòng lũ. Cục này đã nhiều lần cảnh
báo rằng người Trung Quốc có thể sẽ trở thành dân tộc thiểu số lớn nhất ở
Nga trong 20-30 năm tới.” Về phương diện nhân lực cũng như kinh tế và
tài chính, người Nga kém thế hơn so với người Trung Quốc trong khả năng
khai thác và phát triển vùng Viễn Đông, nếu họ được cho phép làm điều
này. Viễn Đông là vùng đất khổng lồ, nhưng có thể nói là hoàn toàn trống
trải, chỉ có hơn 7 triệu người Nga sinh sống ở đây. Trong khi đó ở các
vùng Đông Bắc Trung Quốc có tới hơn 70 triệu người. Đó lại là một vùng
được cho là giàu có về tài nguyên khoáng sản, với các hải cảng giá trị,
rất hấp dẫn đối với người Trung Quốc đang không ngừng mở rộng địa bàn
hoạt động và tìm kiếm các nguồn nguyên vật liệu mới phục vụ cho nền kinh
tế đang phát triển chóng mặt của họ.
Ông Zeihan lưu ý: “Bất kỳ sự bành trướng nào của người Trung Quốc
trong trong khu vực này đều đưa đến câu hỏi: Bắc Kinh có đòi hỏi gì ở
đây? Phần lớn vùng biên – một vùng với diện tích tương tự Iran – là nơi
sinh sống của người Trung Quốc. Nga tiếp nhận vùng này vào năm 1858 và
1860, sau các Hiệp ước Aigun và Bắc Kinh. Trong số các hiệp ước ‘không
công bằng’ mà Trung Quốc dưới triều đại nhà Thanh bị buộc phải ký kết
với nước ngoài thì chỉ còn hai hiệp ước này là Trung Quốc chưa xử lý
được.”
Theo ông Vasily Kashil, cán bộ nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm
Nghiên cứu Chiến lược và Công nghệ, Moskva, đồng thời là cán bộ của Viện
Nghiên cứu Viễn Đông, Moskva, cho biết trong bài viết có tựa đề “Tổng
các mối lo sợ” (The Sum Total of All Fears) đăng trên trang mạng Russia in Global Affairs
ngày 15.4.2013 thì người Nga ý thức được rằng những nguy cơ tiềm năng
trong vùng Viễn Đông có khả năng phát sinh từ phía Trung Quốc.
Ông Kashil cho biết: “Phân tích số liệu liên quan tới việc cung cấp
vũ khí mới cho các lực lượng của Quân lực Nga cho thấy Khu vực Quân sự
miền Đông có tốc độ tái trang bị vũ khí thuộc loại cao nhất trong cả
liên bang. Điều động quân lực từ phần châu Âu của Nga tới Viễn Đông là
một trong những kịch bản then chốt cho các đợt tập trận qui mô lớn của
nước này. Phần lớn các tuyên bố báo chí của Cục An ninh Liên bang FSB về
hoạt động gián điệp có liên quan tới Trung Quốc. Thêm vào đó, Nga rõ
ràng là có hạn chế đầu tư của Trung Quốc trong các khu vực chiến lược
của nền kinh tế quốc gia.”
Trong mối liên hệ này, đáng nhắc lại ở đây là vào tháng 7 năm 2013,
khi Nga có một cuộc tập trận chung qui mô lớn với Trung Quốc ở vùng bờ
biển Thái Bình Dương phía Bắc Trung Quốc thì quân đội nước này cũng có
một cuộc tập trận được cho là có qui mô lớn nhất trong kỷ nguyên hậu
Xô-viết tại Viễn Đông. Giới quan sát cho rằng đây là một phản ứng của
Nga trước nỗ lực tăng cường sức mạnh quân sự của Trung Quốc, một cử chỉ
nhắm vào Trung Quốc lưu ý họ phải “cẩn thận”.
Ông Kashil viết tiếp: “Rõ ràng là mọi biện pháp phòng ngừa của Nga
không liên quan tới các mối đe dọa trực tiếp, mà tới các mối đe dọa tiềm
năng cho lợi ích, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ có khả năng xuất phát
từ Trung Quốc. Nhưng một đe dọa tiềm năng từ phía Trung Quốc cũng đã là
một yếu tố đáng kể trong chính sách ngoại giao và quốc phòng của Nga.”
Ông Kashil cảnh báo người Nga phải tiếp tục tăng cường chú ý tới các “đe dọa tiềm năng” từ phía Trung Quốc:
“Người Nga ung dung ngồi xem cảnh các cửa hàng, công ty của Nhật ở
Trung Quốc bị quấy phá trong đợt sóng giận dữ của người Trung Quốc trong
vụ xung đột liên quan tới quần đảo Senkaku năm 2012, một đợt vận động
chống các siêu thị Carrefour của Pháp do quan điểm của Pháp về Tibet năm
2008, các trừng phạt chống Philippines, các bản tin xuất hiện đây đó về
một cuộc chiến sắp tới với Philippines, Việt Nam hay Nhật Bản. Nhưng
nếu sự căm ghét của công chúng có thể hướng về một nước nhỏ, vô hại như
Philippines, thì bất kể một quốc gia nào cũng có thể trở thành mục tiêu,
hoàn toàn phụ thuộc vào chủ ý chính trị của giới lãnh đạo Trung Quốc.
Vấn đề là ở chỗ không ai có thể biết chủ ý chính trị của giới lãnh
đạo Trung Quốc sẽ hướng về đâu, thậm chí chỉ trong 10 năm tới đây. Cũng
như Nga, Trung Quốc là nước có hệ thống chính trị đang chuyển đổi. Tương
lai dự tính của nước này được công nhận và ghi trong các tài liệu của
Đảng Cộng sản, và một số lớn các tuyên bố về đường lối của giới lãnh đạo
Trung Quốc nói tới cải tổ chính trị không thể tránh được.
Những cải tổ như thế làm sao có thể đặt được dưới tầm kiểm soát?
Trung Quốc đang trên con đường đô thị hóa và chuyển hóa dân số, tương tự
như các nước châu Âu đã trải qua cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Tương
tự như châu Âu, Trung Quốc đang trải nghiệm sự bất bình đẳng kinh tế,
bất công xã hội nghiêm trọng cũng như khoảng cách phân biệt trong giáo
dục ngày càng lớn giữa các tầng lớp trung lưu thành thị và các tầng lớp
thấp hơn.
Tình hình trên bị làm thêm nghiêm trọng bởi khủng hoảng tư tưởng
trong Đảng Cộng sản cầm quyền, họ càng ngày càng sử dụng nhiều nỗ lực
tuyên truyền cho các tư tưởng dân tộc chủ nghĩa và tư tưởng siêu cường
quốc.
Đối đầu với Nga hoàn toàn vô nghĩa, nếu xét theo các lợi ích lâu dài
của Trung Quốc, nhưng ngay cả trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cũng
chẳng có cớ gì để Trung Quốc đối đầu với Nga. Chính sách đối đầu này
xuất phát từ các lợi ích chính trị nội bộ của Mao Trạch Đông và nhóm kề
cận ông ta. Nga bắt buộc phải tính đến khả năng này.” (Hết trích dẫn)
Theo ý kiến nhận xét của nhiều chuyên gia phân tích thì cuộc khủng
hoảng gần đây ở Crimea đặt Nga vào thế bất lợi mới. Nga rất cần Trung
Quốc im lặng, tránh đả động tới hành vi của Nga, nhưng chính sách của
Nga trong vụ Crimea – khẳng định chủ quyền lãnh thổ có tính lịch sử – có
thể tạo ra một tiền lệ pháp lý cho các quốc gia khác đang có ý định
thay đổi biên giới lãnh thổ quốc gia theo hướng có lợi cho họ. Liệu điều
gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc đưa ra ý tưởng đòi lại một phần Viễn Đông,
vốn nằm trong lãnh thổ của họ trong lịch sử gần đây?
Châu Á-Thái Bình Dương ngoài Viễn Đông
Như đã có nhắc tới ở phần trên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, Nga
chỉ mới tăng cường chú ý của mình tới vùng Viễn Đông của Nga cũng như
toàn bộ châu Á-Thái Bình Dương trong những năm gần đây.
Khoảng từ năm 2010, nhu cầu nhiên liệu năng lượng của vùng châu
Á-Thái Bình Dương tăng mạnh, trong khi tiêu thụ nhiên liệu năng lượng
cũng như nguyên vật liệu của Mỹ và Liên minh châu Âu lại giảm; thêm vào
đó Liên minh châu Âu lại có chính sách bớt phụ thuộc năng lượng vào Nga,
vì thế việc Nga có ý định tăng cường định hướng về châu Á-Thái Bình
Dương, khu vực năng động kinh tế nhất thế giới, là điều dễ hiểu, hợp lý,
nếu không muốn nói là bắt buộc.
Yếu tố địa chính trị cũng không kém phần quyết định cho chiến lược
châu Á của Nga. Với hoài bão khôi phục lại vị trí cường quốc xứng đáng
trên thế giới, Nga muốn trở thành một trong các thế lực quyết định trong
khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cùng với Mỹ và Trung Quốc. Trong bước
đi này, Nga cảm nhận được một thuận lợi rất đáng kể là vai trò suy yếu
của Mỹ và thái độ cảnh giác, nghi ngờ của các nước trong khu vực trước
một Trung Quốc đang lên.
Điểm mốc quan trọng trong việc phục hồi sự hiện diện của Nga tại
châu Á-Thái Bình Dương là Hội nghị thượng đỉnh của Diễn đàn Hợp tác Kinh
tế châu Á-Thái Bình Dương tháng 9 năm 2012 tại Vladivostok. Tại hội
nghị này ông Putin đã có lời phát biểu nhấn mạnh Nga là một bộ phận của
khu vực châu Á-Thái Bình Dương đầy năng động, khu vực này là chìa khóa
cho thành công của toàn bộ nước Nga, đặc biệt là cho công cuộc phát
triển vùng Viễn Đông. Nga cũng kêu gọi các nước thành viên tăng cường
giúp đỡ đầu tư xây dựng các tuyến đường giao thông vận tải ở khắp các
vùng rộng lớn của nước Nga. Một năm sau, tháng 6.2013, ông Putin đã gây
nhiều chú ý với bài phát biểu của mình tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại
thành phố St. Peterburg khi thông báo một kế hoạch đầy hoài bão nhằm
thúc đẩy nền kinh tế nước Nga thông qua việc chuyển định hướng về phía
châu Á-Thái Bình Dương thay cho các thị trường truyền thống ở châu Âu.
Ông cũng đề xuất các dự án khổng lồ trong hệ thống cơ sở hạ tầng, gồm
nâng cấp tuyến đường sắt xuyên Siberia để nối nước Nga tốt hơn với vùng
Thái Bình Dương. Bài phát biểu này được giới chuyên gia coi như một
tuyên bố chính sách “xoay trục” của Nga về phía châu Á-Thái Bình Dương,
nơi Nga có một vị trí đáng kể trong quá khứ gần đây.
Để thực hiện việc này, trước hết Nga thiết lập các quan hệ gần gũi
với nhóm các nước ASEAN. Từ năm 2010, Nga có các cuộc gặp gỡ Nga–ASEAN,
đầu tiên là ở cấp nguyên thủ quốc gia, sau đó là ở cấp bộ trưởng, có sự
tham gia của đại diện giới kinh doanh và văn hóa. Tuy nhiên, dường như
người Nga nhận thấy vai trò và vị thế yếu kém của nhóm này nên dần mất
đi hào hứng.
Nga đặc biệt đẩy mạnh quan hệ cộng tác với Trung Quốc, coi Trung
Quốc là đối tác chính trong toàn bộ khu vực. Tuy nhiên, chính sách coi
Trung Quốc là chìa khóa trong quan hệ với khu vực nhanh chóng biểu lộ
hạn chế. Người Nga thấy rõ, nếu chỉ dựa vào Trung Quốc thì do kém thế về
mọi mặt, họ mãi mãi sẽ chỉ đóng vai trò phụ, ngẫu nhiên giúp sức cho
Trung Quốc củng cố thế lực trong khu vực. Vì thế, ông Putin đã mở rộng
nỗ lực theo một hướng khác, đầu tiên với hai nước Đông Á là Nhật Bản và
Hàn Quốc, những nước có nền kinh tế mạnh nhất ở châu Á, và sau đó là
Việt Nam, một quốc gia có nền kinh tế năng động, lại là đồng minh gần
gũi cũ của Nga.
Cuối năm 2013 có thể được gọi là thời gian châu Á của ngoại giao
Nga. Tháng 11, Nga và Nhật Bản đã có một cuộc đàm phán lịch sử 2+2 giữa
các bộ trưởng ngoại giao và quốc phòng hai nước ở Tokyo, được đánh giá
là sự kiện “mở ra một trang mới” trong quan hệ giữa hai nước. Tại đây,
hai bên đồng ý đẩy mạnh quan hệ an ninh, song song với quan hệ kinh tế
và trao đổi chuyên gia. Vài ngày sau, Tổng thống Nga Putin đã có cuộc đi
thăm chính thức Hàn Quốc, với mục tiêu thúc đẩy cộng tác thương mại và
kỹ thuật, đồng thời cũng trao đổi về các vấn đề an ninh trong khu vực.
Tiếp theo, ông Putin đã thăm Việt Nam, một đồng minh cũ mà Nga đang cung
cấp trang bị vũ khí quân sự và giúp xây dựng nhà máy điện hạt nhân; hai
nước cũng có quan tâm thiết lập quan hệ cộng tác chiến lược.
Nếu để ý, người ta có thể dễ dàng nhận ra một điều là hai trong số
ba nước mà Nga đặc biệt quan tâm ở Đông và Đông Nam Á nói trên – Nhật
Bản và Việt Nam – đang có những vấn đề nghiêm trọng liên quan tới tranh
chấp lãnh thổ chủ quyền với Trung Quốc. Hàn Quốc thì được biết đến như
một nước luôn khá “rắn” với Trung Quốc. Người Nga biết rõ là trước hết
các nước này, và sau đó là các nước Đông, Đông Nam Á khác, tuy ở mức độ
thấp hơn, chắc chắn sẽ có những nhìn nhận tốt đẹp, khuyến khích và ủng
hộ hơn cho sự tái hiện diện của Nga trong một khu vực có nhiều căng
thẳng, đặc biệt là khi sự can thiệp, hỗ trợ từ phía Mỹ ngày càng suy yếu
và thái độ quả quyết, hung hăng từ phía Trung Quốc ngày càng gia tăng.
Nga chưa bao giờ chính thức ủng hộ các đòi hỏi lãnh thổ của Trung Quốc
cả ở Biển Hoa Đông cũng như ở Biển Đông.
Tóm lại, quan hệ Nga -Trung trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương có
thể nói là có tính cạnh tranh, ganh đua nhiều hơn là tính cộng tác.
Thay cho phần kết
Cuộc khủng hoảng Crimea và diễn biến của nó chắc chắn đã tạo nhiều
thay đổi trong chính sách, chiến thuật ngoại giao của Kremlin. Trong
quan hệ với Trung Quốc, chuyến đi thăm vừa qua của ông Putin hé lộ Nga
sẽ dựa vào Trung Quốc nhiều hơn, thay thế cho quan hệ với phương Tây
đang xấu đi nghiêm trọng. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng điều này là bắt
buộc đối với Nga hơn là sự lựa chọn tự nguyện. Nga tính đến đẩy mạnh
xuất khẩu nhiên liệu năng lượng, nguyên vật liệu và công nghệ sang Trung
Quốc và lôi kéo các nguồn đầu tư từ Trung Quốc, thay cho các nguồn đầu
tư từ phương Tây. Theo bản tin “Nga ký kết với Trung Quốc một hợp đồng
khí đốt 30 năm” (Russia signs 30-year gas deal with China)
của BBC ngày 21.5.2014 thì sau 10 năm đàm phán kéo dài, cuối cùng Nga
và Trung Quốc đã ký kết thỏa thuận với giá trị được cho là khoảng 400 tỉ
USD cung cấp khí đốt cho Trung Quốc trong vòng 30 năm; tuy nhiên, có
nhiều nhận xét nghi ngờ rằng các điều kiện của thỏa thuận này, đặc biệt
là giá cả, khó có thể làm cho phía Nga hoàn toàn hài lòng. Trung Quốc
cũng hứa hẹn trước mắt sẽ đầu tư khoảng 5 tỉ USD vào vùng Viễn Đông của
Nga.
Trong bài viết có tiêu đề “Ông Putin tìm kiếm các nguồn tài chính Trung Quốc nhằm chèo chống nền kinh tế đang sa sút của Nga” (Putin Going After Chinese Money to Sustain Sagging Russian Economy)
đăng trên trang điện tử của Bloomberg ngày 9.5.2014, các tác giả
Evgenia Pismennaya, Yuliya Fedorinova and Ilya Arkhipov chỉ ra:
“Nga đã xây dựng các mối quan hệ thương mại với Trung Quốc, bao gồm
các thỏa thuận dầu khí với giá trị hàng trăm tỉ đô la, để cung cấp năng
lượng cho Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ nhiều nhất ở châu Á, trong hoàn
cảnh kinh tế châu Âu đang chững lại. Trung Quốc là bạn hàng thương mại
lớn nhất của Nga với tổng giá trị kim ngạch 95.6 tỉ vào năm 2012, theo
sau là Đức, theo số liệu của Bloomberg.
Tuy vậy, Trung Quốc chỉ có vài dự án lớn ở Nga, đó là dấu hiệu cho
thấy có các hạn chế không chính thức cho đầu tư của nước này, như một
quan chức Nga kho biết. Trong tháng 5 này, ít nhất có hai cuộc thảo luận
của chính phủ để định ra các nguyên tắc cho phép giới đầu tư Trung Quốc
làm việc ở Nga.
Ngoài hạn chế quyền xâm nhập vào các ngành kim loại quí và kim
cương, có thể Nga cũng hạn chế đầu tư của Trung Quốc vào các dự án công
nghệ cao. Chính phủ Nga cũng xem xét không cho phép người Trung Quốc
thành lập các khu dân cư lớn để tránh gây các căng thẳng sắc tộc.”
Điều này, ngoài các hệ quả khác, củng cố nhận định rằng mặc dù tăng
cường quan hệ với Trung Quốc nhưng mãi cho tới gần đây, người Nga vẫn có
thái độ nghi ngờ và cảnh giác trước Trung Quốc và việc ngày nay Nga
quay sang dùng đến các nguồn tài chính từ phía Đông là có phần miễn
cưỡng.
Bài viết “Xoay trục của Nga sang Trung Quốc không làm thay đổi hình dạng kinh tế Nga” (Russia’s Pivot to China Won’t Reshape Russian’s Economy”) của tác giả Alexey Eremenko đăng trên trang điện tử The Moscow Times
ngày 21.5.2014 tìm cách phân tích các hiệu quả kinh tế của ý định sử
dụng Trung Quốc như là đồng minh kinh tế chính của Kremlin. Bài báo cho
biết:
“Giới chuyên gia (Nga) cho rằng Trung Quốc có khả năng thay thế Liên
minh châu Âu trong phần lớn các khu vực của nền kinh tế Nga, bao gồm cả
xuất khẩu dầu khí, công nghệ và đầu tư. Nhưng liên minh với một nước
đang phát triển chỉ làm co cứng hiện trạng của nền kinh tế, các chuyên
gia cảnh báo, điều này không giúp Nga tăng cơ hội thoát khỏi vị thế một
nền kinh tế cung cấp nguyên liệu.
Thêm vào đó, dựa vào Trung Quốc như là đồng minh kinh tế duy nhất
chứa nguy cơ mặc nhiên trao cho Bắc Kinh khả năng kiểm soát nền kinh tế
Nga – tuy rằng điều này có thể tránh được nếu Moskva lưu ý đến việc đa
dạng hóa các mối quan hệ kinh tế.”
Hơn nữa, giới chuyên gia lưu ý: “Xuất khẩu của Nga sang Liên minh
châu Âu trong (năm 2012) đạt 238 tỉ USD, hơn hẳn nhập khẩu với tổng giá
trị 134 tỉ, theo số liệu của Tổng cục Thuế quan Nga. Xuất khẩu sang
Trung Quốc đạt 35 tỉ trong cùng thời kỳ, trong khi nhập khẩu từ nước này
đạt 53 tỉ… Về mặt đổi mới công nghệ, sản phẩm Trung Quốc không thể thay
thế được châu Âu.”
Các chuyên gia thống nhất quan điểm rằng nguy cơ chủ yếu của Nga là
sẽ quá phụ thuộc vào Trung Quốc – Trung Quốc sẽ không từ khai thác triệt
để một nước Nga quá phơi bày, một khi có điều kiện.”
Qua bài viết trên, có thể thấy là người Nga ý thức rõ ràng rằng
ngoài các lợi ích trong việc cộng tác gần gũi hơn với nền kinh tế thứ
hai trên thế giới, cần phải tính đến các mặt hạn chế cũng như các mối
nguy cơ tiềm ẩn. Điều này có thể sẽ có nhiều ảnh hưởng tới chiều sâu và
tính lâu dài của đường lối Trung Quốc của ông Putin.
Trong một bài viết gây nhiều chú ý trong thời gian vừa qua với tựa
đề “Ông Putin tái sáng chế công tác chiến tranh như thế nào” (How Putin Is Reinventing Warfare) đăng trên trang Foreign Policy
ngày 5.5.2014, tác giả Peter Pomerantsev đưa ra khẳng định: Kremlin
đang theo đuổi đường lối chiến lược gọi là “chiến tranh phi tuyến”
(non-linear war), khái niệm được sử dụng trong một truyện ngắn của ông
Vladislav Surkov, một trong những cố vấn chính trị gần gũi nhất của ông
Putin, được đăng tải dưới bút danh của ông này là Nathan Dubovitsky, chỉ
vài ngày trước khi Crimea bị sáp nhập vào Liên bang Nga. Surkov là
người được cho là tác giả của hệ thống “dân chủ có/được điều hành” thống
lãnh tư tưởng ở Nga trong thế kỷ 21 và những định hướng tập trung mới
trong đường lối ngoại giao.
Surkov cho rằng “trong các cuộc chiến tranh sơ khai thế kỷ 19 và 20
thường là có hai phía đối chiến. Hai nước, hai khối hay hai liên minh.
Nhưng giờ đây bốn liên minh đối kháng nhau. Không phải hai đối hai, hay
ba đối một. Tất cả đối đầu với tất cả.” Trong một cuộc chiến tranh như
thế, “một vài vùng có thể đứng về phía này, một vài vùng lại đứng về
phía khác. Một thành phố hay thế hệ hay phái giới có thể tham gia một
phía khác nữa. Rồi sau đó lại đổi bên, đôi khi chính giữa cuộc chiến.
Mục đích hoàn toàn khác nhau. Phần lớn coi chiến tranh như một bộ phận
của một quá trình. Không nhất thiết phải là bộ phận quan trọng nhất.”
Nếu quả thật Kremlin đang theo đuổi chiến lược “phi tuyến” như thế,
hẳn người ta sẽ còn được chứng kiến nhiều thay đổi, diễn biến bất ngờ
trong quan hệ Nga-Trung.
© 2014 Trần Hoàng & pro&contra