Tác giả: David Brown
Người dịch: Huỳnh Phan
Một ASEAN rụt rè làm mọi thứ tồi tệ hơn
Vài tuần qua, Trung Quốc đã hết sức
thoả mãn trước cảnh xáo trộn của những ai muốn kiềm chế tham vọng lãnh
thổ của Trung Quốc trong vùng biển từ đảo Hải Nam trải dài về phía nam.
Việc họ triển khai giàn khoan dầu biển sâu Hải Dương 981 vào vùng biển
tranh chấp ngoài khơi bờ biển Việt Nam là khôn ngoan về chiến thuật.
Đúng vậy, Bắc Kinh thường bị lên án như
một kẻ xâm lược. Làm thế nào có thể triển khai giàn khoan mà không bị
coi như thế, như phát ngôn viên Mỹ nói, là ” khiêu khích,… một phần của
cách hành xử rộng lớn hơn của Trung Quốc để thúc đẩy các yêu sách chủ
quyền của họ đối với lãnh thổ tranh chấp theo cách làm suy yếu hòa bình
và ổn định”.
Câu hỏi đặt ra là có thể làm điều gì, nếu được, về điều đó.
Bị bất ngờ, Việt Nam đã xoay xở để
tránh bị lôi kéo vào một cuộc chiến nóng, nhưng đó là thành công duy
nhất của họ. Trong khi nhân viên dầu mỏ Trung Quốc khoan giếng, được hơn
một trăm tàu hải quân và bán quân sự canh phòng, những người yêu nước
Việt Nam đang thu mình cãi vã vặt vãnh với nhau, đánh đập đốc công nhà
máy Trung Quốc và vô vọng nhìn phía chân trời dò tìm sự xuất hiện của
tàu chiến Mỹ.
Hạm đội 7 không đến. Không giống như
chính quyền Bush con, chính quyền Obama thận trọng trong việc vướng
víu vào chuyện ở ngoài nước, và lập trường đó rất có lý. Chẳng còn nhóm
nào trong nước ưa thích ra tay để tranh cãi với kẻ xấu ở xa. Công chúng
Mỹ không chỉ thất vọng bởi bước đột phá sai lầm ở Iraq và cuộc xung đột
dường như vô tận ở Afghanistan mà họ còn bị cuộc suy thoái đau đớn nện
vào và quá trình phục hồi cho đến nay chỉ ra làm cho những kẻ vốn được
lợi mà thôi. Hiểu được tâm trạng của công chúng, Obama từ chối dính dáng
vào Syria, hay Ukraina nữa, và cũng chưa có chuyện gì có thể thúc đẩy
người Mỹ can thiệp vào sự tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc, mặc dù
Việt Nam vẫn nằm trong tiềm thức người Mỹ.
Bàn luận ở đây với các giả định, đã có thể có hai điều lôi kéo người Mỹ can dự vào.
Thứ nhất, nếu 10 thành viên của Hiệp
hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) cùng nhau bác bỏ khẳng định hầu như
không có căn cứ của Trung Quốc về chủ quyền trên các vùng biển trải dài
về phía nam của Hồng Kông và đảo Hải Nam, Mỹ có thể đã có một chỗ bám để
đưa ra một cam kết cụ thể đối với an ninh khu vực.
Thứ hai, nếu có thể nắm được là Hà Nội
đang hướng tới một hệ thống chính trị cởi mở trong đó mọi công dân đều
được hưởng các quyền cơ bản của con người, thì Obama có thể đã đưa ra đủ
lý do giúp Việt Nam trực tiếp, tức là điều phải làm để hàn gắn các vết
thương từ nửa thế kỷ qua.
Những điều nói trên đã không xảy ra.
Như vậy, trong khi Washington dường như đã sẵn sàng để vẽ một lằn ranh
xung quanh Nhật Bản, Hàn Quốc và cũng có thể Singapore và eo biển
Malacca, Hải quân Hoa Kỳ lại đang giữ một khoảng cách khá xa đối với
cuộc đối đầu gần bờ biển Việt Nam.
Có thể cho rằng, Mỹ đang dự định chấp nhận nhìn Việt Nam bị “Phần Lan hoá” (*).
Có lẽ có những thứ tồi tệ hơn. Phần Lan
hoá là một thuật ngữ, nẩy sinh trong những năm đầu thời chiến tranh
lạnh, thừa nhận rằng sự gần gũi của các nước nhỏ với các cường quốc đặt
ra những hạn chế về chủ quyền của họ. Những người có trí nhớ dai sẽ nhớ
lại rằng, bằng cách cam đoan không liên kết chống lại Liên Xô, Phần Lan
thoát khỏi tình trạng nô lệ áp bức giáng lên các nước vệ tinh Đông Âu.
Thật ra, “Phần Lan hoá” tổng kết khá
tốt tư thế mà cánh bảo thủ và ý thức hệ của Đảng Cộng sản cầm quyền ở
Việt Nam đã kiên trì cổ vũ cho Việt Nam. Liệu đó có là một chính sách
được việc hay không, vẫn còn tranh luận. Việc Trung Quốc triển khai giàn
khoan Hải Dương 981 vào Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam, chỉ là
những bước gần đây và kịch tính nhất nhằm việc khẳng định quyền thống
trị của họ, cho thấy (như tôi đã lập luận trong Asia Sentinel ngày 7 tháng 5)
rằng những nỗ lực của cánh bảo thủ để chiếm được lòng tin của Bắc Kinh
đã thất bại hoàn toàn. Tuy nhiên, từ cuộc khủng hoảng hiện nay, phe bảo
thủ có thể kết luận rằng nỗ lực chân thành của họ trong việc tạo ra sự
hài hòa đã bị một liên minh trí thức ngoài Đảng và phe cởi mở trong Đảng
huỷ hoại.
Tuy nhiên, trò chơi chưa kết thúc. Đến
tháng 8, đầu mùa mưa bão, tàu Trung Quốc sẽ kéo Hải Dương 981 về chỗ mà
nó ra đi. Trong giai đoạn nghỉ ngơi này, có thể Việt Nam và các nước
láng giềng sẽ hình thành nên một tư thế để đối phó với sự xâm lược tiếp
theo của Trung Quốc.
Hà Nội đã đầu tư rất nhiều vốn liếng
chính trị vào ASEAN, coi nó như một bức tường thành chống lại việc Bắc
Kinh tìm kiếm quyền bá chủ ở biển Đông. Điều rối rắm là, ASEAN không
phải là một thực thể an ninh tập thể, và với tư cách một tổ chức, nó gần
như điếc trước những lời kêu gọi của Việt Nam và Philippines, yêu cầu
ủng hộ chống lại sự xâm lấn của Trung Quốc. Mỗi một nước trong số 8
thành viên còn lại của ASEAN ít nhiều đã xem cuộc tranh cãi của Việt Nam
với Trung Quốc ở phía bắc biển Đông chẳng phải vấn đề của họ. Thay vì
làm mất lòng Trung Quốc, Campuchia và Thái Lan chủ yếu đã nỗ lực để ngăn
chặn một vị thế vững mạnh của ASEAN về quản lý tranh chấp lãnh hải ở
Biển Đông.
Nếu không có sự đồng thuận 10 nước, sao
lại không tìm sự đồng thuận của 6 thành viên? Tại sao những thành viên
ASEAN có lợi ích trực tiếp trong việc khai thác biển Đông và các nguồn
tài nguyên dưới đáy biển của mình một cách hợp lý và hài hòa, lại phải
tiếp tục trì hoãn vì có thành viên không cảm nhận được mối đe dọa từ
Trung Quốc? Từ bên lề hội nghị các nhà lãnh đạo ASEAN, tổ chức ở
Napyidaw (Myanmar), chỉ ngay sau khi Trung Quốc triển khai giàn khoan
981, có vài bài báo nêu rằng, tiếng ồn ào ngoài khơi bờ biển Việt Nam đã
là một tiếng gọi đánh thức cho Malaysia, Indonesia và Singapore. Cùng
với Brunei, Philippines và Việt Nam, phải cân nhắc khả năng sắp xảy ra
Hoà bình kiểu Trung Quốc (Pax Sinica) trong vùng biển gần đó, là một
chuyện mà không ai có thể đồng tình.
Liệu Trung Quốc sẽ nao núng nếu 6 nước
ven biển Đông kiên quyết theo đuổi cách giải quyết dựa trên Luật Biển
của Liên Hợp Quốc, nhằm giải quyết các yêu sách mâu thuẫn nhau ở phần
phía Nam của biển Đông, hay chỉ việc điểm mặt Trung Quốc là kẻ xâm lược?
Có lẽ không nao núng, nếu đó là tất cả, nhưng Bắc Kinh chắc chắn sẽ rất
tức giận. Khi gặm nhấm về phía nam, Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng họ sẽ
chỉ thảo luận các yêu sách đối đầu ở biển Đông tay đôi. Tuần này họ đã
cảnh báo Việt Nam và Philippines phải từ bỏ việc hình thành quan hệ “đối
tác chiến lược”.
Và các nước có quyền lợi trong việc duy
trì trật tự quốc tế, đặc biệt là Mỹ thì thế nào? Khi nào họ sẽ từ bỏ cố
gắng xử sự với Bắc Kinh như thể đó là chính phủ của một nước bình
thường và là một đối tác tiềm năng? Khi nào họ sẽ nhận ra rằng Trung
Quốc đang cố tự thuyết phục rằng mình là nạn nhân, là một nước đã bị
ngăn chặn địa vị xứng đáng. Vì thế nên chế độ Bắc Kinh nhầm tưởng Trung
Quốc có quyền bác bỏ những nguyên tắc cơ bản họ xem không lợi cho mình.
Ở biển Đông, lực lượng huỷ diệt
(juggernaut) Trung Quốc đang triển khai. Nó vẫn có thể bị dừng lại ở
quần đảo Hoàng Sa, nhưng chỉ khi các mục tiêu của Trung Quốc và bạn bè
của họ kiên quyết đẩy lùi một cách mạnh bạo ở toà án quốc tế, ở tòa án
công luận, và đến khi cần thiết thì cũng ở ngoài biển cả.
——
(*) Phần Lan hóa: là
cụm từ mang ý nghĩa: một nước lớn chi phối chính sách của một nước nhỏ,
khi nước lớn ở cạnh nước nhỏ. Như Liên Xô chi phối chính sách của Phần
Lan thời kỳ chiến tranh lạnh, mặc dù trên danh nghĩa, Phần Lan là quốc
gia độc lập.