Hoàng Mai
Trong mấy
ngày đầu tháng 4/2014 này, tin vui, thậm chí là rất bất ngờ đến với
những người quan tâm đến tình hình chính trị Đất nước, đó là việc Nhà
nước đã thả 3 người tù, gồm: Cù Huy Hà Vũ, Vi Đức Hồi và Nguyễn Tiến
Trung.
Với TS Cù Huy Hà Vũ, anh cùng vợ là LS
Nguyễn Thị Dương Hà đã đến Mỹ hôm 07/4. Nhìn nụ cười và khuôn mặt rạng
rỡ của LS Nguyễn Thị Dương Hà, tại phi trường Dulles International
Airport, Hoa Kỳ, hôm 07/4, rất nhiều người mừng cho anh chị. Thiết nghĩ,
với một người mang bệnh về tim và một số bệnh hiểm nghèo khác như Cù
Huy Hà Vũ, việc anh được ra tù, cho dù với bất kỳ lý do, và nguyên nhân
gì đi nữa, thì đó là điều hạnh phúc không chỉ riêng đối với cá nhân, gia
đình anh… mà là của tất cả những ai quan tâm và biết về anh qua những
cống hiến của anh cho phong trào dân chủ, cho Đất nước trong mấy năm
qua.
Kể từ hôm hình ảnh Cù
Huy Hà Vũ đến Mỹ, đã có nhiều bài viết về anh, mừng cho anh cũng nhiều,
và trách anh (vì ra nước ngoài) cũng có…; với người viết bài này, tôi
cho rằng, nhìn nhận và đánh giá như của tác giả Phạm Chí Dũng, trong bài
viết “Phạm Chí Dũng: Hãy để yên cho ông Cù Huy Hà Vũ sống như một người bình thường” (1), là một quan điểm đúng đắn nhất!
TS
Cù Huy Hà Vũ và vợ LS Nguyễn Thị Dương Hà, cùng cô Jenifer L Neidhart
de Ortiz, đặc trách nhân quyền của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, đặt
chân xuống phi trường Dulles International Airport, ngày 7 tháng 4,
2014.
Với
hai người còn lại trong đợt “đặc xá” vừa rồi, là Vi Đức Hồi và Nguyễn
Tiến Trung, việc các anh ra tù cũng đầy bất ngờ, không chỉ với những ai
quan tâm, mà còn bất ngờ ngay cả với các anh, cũng như gia đình, người
thân của hai anh… Thông tin trên báo chí của các hãng thông tấn nước
ngoài như BBC, VOA, RFI, RFA trong ngày 12/4 cho ta biết điều đó.
Hy
vọng tới đây, tất cả những “tù nhân lương tâm” (theo cách gọi giới
truyền thông nước ngoài và cộng đồng mạng…), như Điếu Cày Nguyễn Văn
Hải, Bùi Thị Minh Hằng, Trần Huỳnh Duy Thức, Tạ Phong Tần, Đỗ Thị Minh
Hạnh… đều sẽ được trả tự do.
Sau đây là vài suy nghĩ của người viết, nhân việc Nhà nước trả tự do cho 3 người nói trên:
I. Bắc Kinh không phải là chỗ dựa an toàn cho bất kỳ ai ở Việt Nam
Có
lẽ, trên 95% người Việt Nam, từ khi đến tuổi trưởng thành về cuối đời,
không ai là không biết đến hai cái tên Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống;
mặc dù hai vị này, một vị đã chết cách đây gần 700 năm (Trần Ích Tắc:
1254-1329), và một vị chết cách đây hơn 200 năm (Lê Chiêu Thống:
1765-1793); Nhân Dân Việt Nam luôn lấy hai người này để nguyền rủa những
kẻ làm tay sai cho phương Bắc. Đây là bài học cho những ai hôm nay muốn
dựa vào Bắc Kinh để giữ quyền lực.
Chưa hết,
chúng ta đều biết rằng, Trung Quốc là nước có truyền thống lưu trữ các
tài liệu về mặt Nhà nước. Lịch sử Việt Nam mà mọi người chúng ta đã được
học, được biết đến ngày nay hầu hết đều được sưu tầm, dịch ra từ tiếng
Hán [điều này có lý do của nó, vì với hàng nghìn năm đô hộ, Bắc thuộc và
gây chiến tranh xâm lược… các triều đại phương Bắc đã có chủ trương đốt
sạch, hoặc tịch thu tất cả những gì là văn hóa Việt để đem về Trung
Hoa; chưa kể đến việc, Việt Nam liên miên có chiến tranh (nội chiến và
xâm lược), cho nên các sử liệu bị mất, thất lạc…]. Vậy thì, tất cả những
góc khuất trong lịch sử Việt Nam hiện đại, kể từ ngày thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam đến nay, cũng không là ngoại lệ. Không bao lâu nữa,
tất cả rồi sẽ được (hoặc bị) chính người Trung Quốc tuyên bố, hoặc khi
có sự thay đổi thể chế chính trị tại Trung Quốc sau này.
Chắc chắn một điều rằng, mai đây, khi sự thật đã được phơi bày, thì không ai có thể chạy trốn được lịch sử.
Tài
liệu về HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ (2), trong khi ở Việt Nam không mấy ai biết
(ngay cả đến các Ủy viên trung ương), thì chính người Trung Quốc đã công
bố, đó là bài học đắt giá cho những kẻ tìm đến Bắc Kinh nhằm kiếm giải
pháp duy trì chế độ, mà những kẻ đó đang còn sống đến hôm nay. Chắc là,
nếu linh thiêng, Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống, dưới mồ sẽ mỉm cười, vì
đã có hậu bối nối dài trong danh sách bán nước để chia bớt những nỗi
nhục với họ?!
“HỘI NGHỊ THÀNH ĐÔ”, tài liệu và ảnh do chính người Trung Quốc đưa ra,
liệu các Ủy viên trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam tất cả các khóa, đã mấy ai biết được sự thật này?
Sự
kiện năm 1988, Trung Quốc bất ngờ đánh chiếm đảo Gạc Ma ở quần đảo
Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, khi phía Trung Quốc đưa ra video
clip (https://www.youtube.com/watch?v=aqblBfAfIrA),
chúng ta mới biết rằng, những người lính Việt Nam không hề được cầm
súng bắn lại kẻ thù… Kẻ nào ra lệnh để những người lính Việt Nam buộc
phải làm bia đỡ đạn cho bọn giặc cướp nước? Lịch sử đã một phần và sẽ
trả lời đầy đủ. Thật nhục nhã cho những kẻ và gia đình của họ, khi họ sẽ
là danh sách nối dài của những Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống, tạo
thành một trang đen trong lịch sử Việt Nam.
Cách
đây mấy tháng, người viết bài này có đọc được một comment của một ai đó
trên diễn đàn mạng, đại ý: “Mọi thứ có thể che dấu được, ngoại trừ ba
thứ: Mặt trời, Trái đất và Sự thật”; Hy vọng, những ai còn đang suy nghĩ
dựa vào Bắc Kinh để giữ quyền lực, hoặc che dấu sự thật…, thì hãy tỉnh
ngộ để không là nỗi nhục cho dòng họ, con cháu sau này…
Rồi
đây, chắc chắn sẽ có nhiều tác phẩm tựa như “Bên thắng cuộc”, hoặc “Đêm
giữa ban ngày”, ra đời, mà tác giả của những tác phẩm ấy đang còn sống,
khỏe mạnh, và không ai dám nói rằng, họ đã xuyên tạc sự thật, xuyên tạc
lịch sử.
Trên đây là nói về tài liệu, sử liệu; còn đô la xanh, thẻ xanh… thì sao?
Có
một điều lạ, chưa thấy ai là người Việt Nam chọn Trung Quốc làm nơi
định cư; thậm chí khi phạm tội, cũng muốn chạy sang Mỹ để sống nốt đời
còn lại, như Dương Chí Dũng, hay Huyền Như (trong vụ tham nhũng hàng
nghìn tỷ ở Ngân Hàng VietinBank) là những ví dụ... Đặc biệt, những người
giàu có, đặc biệt là các ông có chức, có quyền, khi đã có nhiều tiền,
thì chủ yếu là chọn Mỹ và tiếp sau là các nước phương Tây để gửi con đi
du học; không ít người đang “chạy” thẻ xanh cho con cái để được là công
dân Mỹ sau này.
Không những thế, ngay cả người Trung Quốc cũng muốn chạy khỏi Tổ Quốc của họ với rất nhiều lý do, riêng với các “quan” thì: “… qua
điều tra đối với 3.300 người có tài sản mức 10 triệu tệ trở lên thì có
2/3 đang tìm kiếm cơ hội đầu tư ra nước ngoài để được định cư dưới hình
thức di dân, 1/3 đã có tài sản ở nước ngoài”(3). Vậy là, gần như 100% người giàu ở Trung Quốc muốn chạy khỏi đất nước này, với mục đích là: “Thứ
nhất do không khí và môi trường sinh thái ở Trung Quốc hiện đã ô nhiễm
đến mức báo động; thứ hai là mong muốn con cái được hưởng nền giáo dục
tốt hơn so với trong nước” – cũng bài báo trên cho biết.
Các
công bộc “vì nước quên thân, vì dân phục vụ” của Trung Quốc (và cả ở
Việt Nam), đang tìm đến các nước Âu, Mỹ để tìm cuộc sống mới, an toàn…,
sau khi đã cướp, vơ đầy túi tham, bằng việc lợi dụng chức quyền trong
chế độ độc đảng lãnh đạo.
Những
dẫn chứng trên đây để cho thấy, Bắc Kinh không phải là chỗ dựa an toàn
(về thanh danh, tiền bạc, định cư…) cho bất kỳ ai ở Việt Nam. Đừng hy
vọng sẽ dấu Nhân Dân Việt Nam được mãi, cho dù chỉ là những văn bản, tài
liệu… mà họ đã lừa dối Nhân Dân để thỏa thuận với Bắc Kinh trước đây.
II. Tín hiệu gì từ phía Chính quyền Việt Nam sau khi thả các tù nhân?
Lý do thì có thể nhiều, riêng người viết bài này có mấy dự đoán sau:
1. Lãnh đạo Việt Nam lo sợ sự sụp đổ kinh tế kéo theo nguy cơ sụp đổ chế độ và những bạo loạn có thể xảy ra
Sau
gần 30 năm tiến hành “Đổi mới” (từ 1986); với chính sách ngoại giao
khôn khéo; đồng thời, bộ máy tuyên truyền đã không ngừng thổi phồng về
những thành tựu “thu hút vốn đầu tư nước ngoài” [gồm vốn vay ưu đãi ODA,
vốn đầu tư trực tiếp FDI…]; tự mê hoặc lãnh đạo Đảng, thường chỉ là
những người học Mác-Lê nin, rằng Việt Nam sẽ hóa “rồng châu Á”, hóa “hổ
châu Á”… Trong khi, những tiền đề cho phát triển (công nghiệp chế tạo,
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ cao…) thì đều bị các nhóm lợi
ích thâu tóm và triệt tiêu (ngành công nghiệp ô tô là điển hình). Đến
bây giờ nhìn lại, Việt Nam không có bất kỳ một sản phẩm nào để được thế
giới biết đến, ngoại trừ “là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới”
(nhưng Nông dân lại đang trong tình trạng đói nghèo, bần cùng…). Việc sử
dụng vốn vay nước ngoài một cách lãnh phí (chủ yếu dùng vào đầu tư công
để có cơ hội tham nhũng, và chi trả lương cho bộ máy hành chính khổng
lồ mà ta hay gọi “3 trong 1”, gồm: Đảng, Chính quyền và các đoàn thể của
Đảng lập ra), và đến nay đã bắt đầu thời kỳ chi trả, và không có khả
năng chi trả. Nền kinh tế Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của sự sụp đổ.
Việc
không tạo ra sản phẩm mới, giá trị mới trong suốt hai mươi năm qua;
đồng thời lại để cho Trung Quốc thâu tóm gần như toàn bộ thị trường hàng
tiêu dùng, làm cho công nghiệp xuất hàng tiêu dùng (gọi là công nghiệp
nhẹ) cũng không thể phát triển được, và đến hôm nay, ngoài bán tài nguyên để trả nợ, Việt Nam không có một nguồn thu nào khác để trả nợ. Nhiều tỉnh thu thuế không đủ trả lương cho bộ máy hành chính, thì lấy đâu ra tích lũy để đầu tư công?
Đến
thời điểm này, Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn phải trả các khoản vay
và lãi vay, mỗi năm ước khoảng 5 tỷ đô la (khoảng 100.000 tỷ đồng mỗi
năm); và như vậy, toàn bộ những yếu kém và những tính toán sai lầm trước
đây, thì nay bắt đầu đến lượt nó tác động ngược trở lại, gây nên khủng
hoảng mọi mặt, toàn diện… như đang diễn ra.
Một
đề tài khoa học cấp nhà nước mang tên “Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt
Nam giai đoạn 2011-2020: từ nhận thức với hành động”, do ĐH Kinh tế Quốc
dân thực hiện, cho biết: “Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt
hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so
với Singapore” (4); “Thành quả” của gần 30 năm “đổi mới” của Việt Nam là
như vậy đấy!
2. Lãnh đạo Việt Nam đã thức tỉnh và đang đi tìm lối thoát
Đảng
cộng sản Việt Nam đang khủng hoảng về đường lối. Cương lĩnh “Lấy chủ
nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động”, thực sự đã lỗi thời và bế tắc. Một chính đảng
khi đã không còn tìm ra cương lĩnh và phương hướng hành động phù hợp với
thực tiễn, và thời đại…, thì sẽ đi đến diệt vong. Đảng cộng sản Việt
Nam hiện nay đang ở giai đoạn cuối của tiến trình này.
Những
người cộng sản thực sự đã mất lý tưởng từ lâu rồi; từ cấp cơ sở là xã
phường cho đến cấp cao nhất (người càng có nhận thức thì đã sớm vứt bỏ).
Thực chất, điều hành Việt Nam hiện nay là các nhóm lợi ích. Nhưng cũng
có thể phân chia thành 2 “phe” chính: Phe bảo thủ thân Tàu, và phe “Dân
chủ”.
Phe thân Tàu cũng đã nhận ra rằng, không
thể dựa vào Bắc Kinh được nữa, vì Bắc Kinh cũng đang gặp phải vấn nạn
tham nhũng, phe phái, mâu thuẫn, đấu đá nội bộ, mâu thuẫn sắc tộc… và
cũng đang đi đến sụp đổ; Phe thân Tàu buộc phải nhượng bộ phe “Dân chủ”
để còn hy vọng là sau này không bị quy kết, vạch mặt là kẻ bán nước khi
thể chế thay đổi.
Từ những khó khăn, bế tắc nói
trên, cùng với sức ép của quốc tế, nên buộc lãnh đạo Việt Nam phải thả
các tù nhân nhằm đổi lấy việc được kết nạp là thành viên của TPP trong
năm 2014 đang như là mục tiêu lớn của Chính phủ Việt Nam. Vì vậy, trong
cuộc gặp gỡ với Tổng thống Mỹ Barak Obama, hôm 25.3, tại The Hague-Hà
Lan, nhân “Hội nghị Thượng đỉnh An ninh hạt nhân lần thứ ba”(5), thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng “khẳng định quyết tâm cùng Mỹ và các thành viên
sớm kết thúc đàm phán TPP theo tinh thần quan tâm thỏa đáng đến lợi ích
và sự chênh lệch về trình độ phát triển. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng
đề nghị Mỹ quan tâm thỏa đáng tới các lợi ích của Việt Nam và hỗ trợ
Việt Nam trong đàm phán, đề nghị Mỹ sớm công nhận quy chế thị trường với
Việt Nam”.
3. Tín hiệu lạc quan
Cái
khó hôm nay của lãnh đạo Việt Nam, đó chính là muốn thoát ra khỏi quỹ
đạo của Bắc Kinh mà chưa thể được vì nhiều lý do, một trong những lý do
quan trọng là nền kinh tế Việt Nam đã phụ thuộc sâu vào Trung Quốc,
không thể thay đổi, cắt đứt chỉ trong một thời gian ngắn. Mặc dù vậy,
hàng ngũ lãnh đạo Việt Nam, trong thế buộc hiện nay, cũng đã thống nhất
được với nhau ở quan điểm lớn, đó là: Phải thoát khỏi Bắc Kinh.
Dưới
thời của các ông Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng, vai trò cá nhân của
TBT không còn độc quyền như trước, vì vậy cũng là một cơ hội để thay
đổi. Sau một thời gian dài với sự kiêu ngạo và ấu trĩ… thì nay, lãnh đạo
Việt Nam đã xác định phải trở lại với Nhân Dân, phải dựa vào Dân. Việc
dự kiến “Một lễ cầu siêu sẽ được tổ chức tại Trường Sa để ghi nhận
công lao của những anh hùng, liệt sĩ nhiều thế hệ, kể cả những người
lính Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh vì bảo vệ Hoàng Sa năm 1974, cũng như
các thuyền nhân thiệt mạng ngoài biển Đông” (6), như các báo
đưa tin trong ngày đầu tháng 4.2014 như là một tín hiệu nhằm lấy lại
lòng dân, cũng như muốn để được sự ủng hộ của 4 triệu Việt kiều ở Hải
ngoại.
Việc thả tù nhân cũng là một giải
pháp để được sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các nước phương Tây trong cải cách
kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.
4. Thời điểm và giải pháp phù hợp cho sự thay đổi
Do đã phụ thuộc sâu rộng vào Bắc Kinh, cho nên thời điểm để Việt Nam thay đổi chỉ có thể diễn ra khi:
- Phe “Dân chủ” thực sự mạnh, chiếm ưu thế áp đảo trong nội bộ Đảng, và được sự ủng hộ của Nhân Dân chủ động để thay đổi.
- Cần một biến cố bên Trung Quốc (có thể là không lớn lắm) về kinh tế, chính trị… làm thời cơ để thay đổi.
Trong
một bài viết có tựa đề “Cù Huy Hà Vũ” (7), đăng trên Bauxite Việt Nam
ngày 13.4.2013 của TS Phạm Trọng Chánh, một người sống ở Pari lâu năm,
từng là bạn với cụ Cù Huy Cận; trong bài viết của mình, ngoài việc nói
về Cù Huy Hà Vũ, TS Phạm Trọng Chánh đưa ra quan điểm, một góc nhìn rất
mới (phải chăng, do có thời gian sống lâu ở Tây Âu, tác giả có sự do
sánh giữa Mỹ và các nước châu Âu, nên mới rút ra được?), cần được nghiên
cứu để áp dụng tại nước ta trong điều kiện hiện nay, đó là:
“Dân
chủ chính trị lưỡng đảng là một thể chế hoàn hảo nhất của nhân loại
ngày nay, nó tránh tình trạng độc tài tham nhũng chế độ độc đảng, nó
tránh tình trạng manh mún hàng trăm đảng mà không có đảng nào có thực
lực nắm đa số quốc hội. Tam Quyền Phân Lập: độc lập giữa Hành Pháp, Lập
Pháp và Tư Pháp. Tránh tình trạng vừa đá banh vừa là trọng tài. Chính
trị lưỡng đảng khi đảng thắng cử họ chỉ thay đổi khoảng từ 300 đến 3000
người lãnh đạo, khác với độc đảng hàng triệu người bị loại khỏi guồng
máy quốc gia. Khác với hàng trăm đảng hỗn loạn không tìm ra một gương
mặt nào sạch sẽ. Từ giã chế độ độc đảng tránh cho nhân dân tình trạng
một cổ hai tròng, mỗi chức vụ hành pháp đều có một ông đảng kế bên,
lương bổng phải trả hai lần, hai người cùng làm một nhiệm vụ. Chế độ
chính trị lưỡng đảng là một thể chế hào hứng, nhân dân góp phần trực
tiếp bầu người lãnh đạo từ Tổng thống, Quốc hội Thượng Viện, Hạ Viện cho
đến cơ cấu địa phương làng xã, thành phố”.
Với tình hình chính trị tại Việt Nam hiện nay, TS Phạm Trọng Chánh đưa ra quan điểm:
“Tất
cả những tiên đoán Dân chủ Việt Nam sẽ khai sinh khi Đảng Cộng Sản Việt
Nam sụp đổ, khi Chính phủ Việt Nam sụp đổ như Đông Âu, điều này sai lầm.
Trong hoàn cảnh đất nước trước áp lực Trung Quốc đang bành trướng tham
vọng một nền kinh tế thứ hai địa cầu, sự suy yếu của Việt Nam sẽ là một
nguy cơ cho dân tộc Việt Nam. Việt Nam sẽ tiến đến dân chủ trong một thế
mạnh, sau ba thập niên phát triển kinh tế. Việt Nam cần thiết phải cải
tổ hệ thống chính trị của mình. Hệ thống chính trị độc đảng đã lỗi thời,
guồng máy khai sinh từ trong chiến tranh không còn thích ứng với hoàn
cảnh Hội nhập Kinh tế Toàn cầu. Không chỉ có một Cù Huy Hà Vũ, hay
Nguyễn Tiến Trung thao thức cải tổ, mà hàng vạn cựu du học sinh sau bao
nhiêu năm du học tại nước ngoài, hàng trăm ngàn trí thức đào tạo trong
nước, toàn dân Việt Nam cũng đã thức tỉnh trước sự lạc hậu của hệ thống
chính trị Việt Nam. Những nhà chính trị Việt Nam hiện tại đang nắm
giữ quyền lực chỉ còn có một lựa chọn là trở nên những bà mụ tốt bụng
hiền lành, làm công việc khai sinh một nền dân chủ cho Việt Nam.
Trong
lịch sử Việt Nam, từ sự kiện Lê Hoàn nhà Tiền Lê, Lý Công Uẩn nhà Lý,
đến những đổi mới năm 1986, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã có những sáng
kiến thay đổi tài tình, chúng ta hy vọng và đặt hy vọng vào tương lai
Việt Nam vào thế hệ trẻ, chí tung thẳng trời xanh của Việt Nam”.
Thiết nghĩ, đó cũng là giải pháp phù hợp nhất hiện nay trong điều kiện của Việt Nam.
13.4.2014
H.M.
Bài tham khảo:
(5) http://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/viet-nam-hoan-thien-phap-luat-ve-hat-nhan-20140325215616865.htm
(6) http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/601435/cau-sieu-cho-tat-ca-nhung-nguoi-hy-sinh-vi-bien-dao.html
Tác giả gửi cho BVN