Phạm Thị Hoài
Ngày 18/11/1976, học giả Robert Havemann, nhà bất đồng chính kiến
nổi tiếng nhất ở CHDC Đức, người được coi là cha đẻ tinh thần của cuộc
cách mạng hòa bình năm 1989, viết một bức thư ngỏ gửi Tổng Bí thư
Erich Honecker về việc bạn ông, cũng một nhà bất đồng chính kiến lừng
danh, nghệ sĩ Wolf Biermann, bị cấm về nước sau chuyến lưu diễn tại Tây
Đức. Havemann từng là bạn tù của Honecker thời Quốc xã, từng viết thư
thỉnh cầu Honecker thả một người bất đồng chính kiến khác và được chấp
thuận, từng được Honecker che chắn ở một số vụ, và dù đã bị khai trừ
khỏi Đảng, cấm giảng dạy, sa thải khỏi trường đại học và Viện Hàn lâm
Khoa học, tước mọi chức vụ trong đó có chức đại biểu Quốc hội, ông vẫn
coi mình là một người cộng sản.
Bốn ngày sau, 22/11/1976/, tuần tin Spiegel (Tây Đức) đăng bức thư đó. Trong thư, Havemann kêu gọi Honecker cho phép Wolf Biermann được về nước, “trước hết để tránh nhục nhã và thiệt hại cho tất cả chúng ta và uy tín của đất nước ta“, bởi lẽ – nguyên văn: “tất
cả những cáo buộc và nghi ngờ rằng Wolf Biermann thù địch với CHDC Đức
đều hoàn toàn vô lối. Wolf Biermann đã phê phán, phê phán mạnh mẽ và sắc
nhọn. Nhưng những đồng chí ưu tú nhất của chúng ta cũng đã sử dụng vũ
khí phê phán mạnh mẽ không khoan nhượng, nhất là khi cần vạch ra những
khuyết điểm và nhầm lẫn của chính chúng ta, chẳng phải luôn luôn là như
vậy hay sao? Wolf Biermann đã phê phán theo cách đó, phê phán trong tinh
thần của người cộng sản. Ai không chịu nổi những lời phê phán ấy là
thừa nhận rằng mình không có gì để đáp lại ngoài bạo lực.” Ông phân tích tiếp, với chiến dịch khai trừ Wolf Biermann “các
đồng chí đã biến anh ấy thành hình ảnh lí tưởng trong mắt hàng triệu
thanh niên Đông Đức. Giờ đây anh ấy là hiện thân của một thứ hi vọng lớn
cuối cùng về một chủ nghĩa xã hội mà những thanh niên ấy đã thôi không
còn mơ ước.”
Bốn ngày sau, 26/11/1976, Tòa án huyện Fürstenwalde ra lệnh quản thúc Havemann tại gia, vì tội “hoạt động đe dọa đến an ninh và trật tự công cộng“.
Nơi ở và toàn bộ gia đình ông bị 200 nhân viên An ninh Quốc gia (Stasi)
thay nhau canh gác suốt ngày đêm. Ông bị cấm liên lạc với phóng viên,
nhân viên ngoại giao nước ngoài và 70 công dân Đông Đức “có vấn đề”
khác. Năm 1979, tòa ra tiếp lệnh khám nhà, tịch thu nhiều tài liệu và đồ
đạc, phạt ông một khoản tiền lớn, 10.000 Mark Đông Đức, với tội danh vi
phạm Luật Ngoại tệ, vì ông đã cho xuất bản nhiều tác phẩm ở nước ngoài.
Đơn kháng án của ông bị bác. Luật sư của ông bị tước quyền hành nghề.
Ba năm sau, 1982, Havemann qua đời.
So với ước chừng tổng cộng 250.000 tù nhân chính trị trong vòng 40
năm ở CHDC Đức, những người thậm chí bị tống giam chỉ vì buông một lời
nói kháy chính quyền hay Anh Cả Liên Xô, ông Havemann, “kẻ thù số 1 của
nhà nước”, với ba năm quản thúc và một khoản tiền phạt có thể coi là còn
được luật pháp của đất nước chuyên chính vô sản này nương nhẹ. Song gần
hai mươi năm sau khi ông qua đời, 7 thẩm phán và công tố viên của nhà
nước Đông Đức đã tham gia vào hai vụ án kết tội ông, đến lượt họ, lại
phải ra tòa vì tội Rechtsbeugung: lợi dụng luật pháp, cưỡng
đoạt luật pháp, lũng đoạn luật pháp, tha hóa luật pháp, nắn bóp và co
giãn luật pháp… để cản trở công lí, nói nôm na là bẻ cong luật pháp.
Một trong những điểm then chốt trong hiệp thương thống nhất giữa hai
nhà nước Đức sau Chiến tranh Lạnh là nguyên tắc hòa giải. Không được
dùng luật pháp của Tây Đức để phán xử thực tiễn xã hội Đông Đức. Chỉ có
thể dùng chính luật pháp của Đông Đức để khôi phục công lí cho những gì
đã diễn ra tại đó. Thực tế áp dụng nguyên tắc hòa giải này, sau một phần
tư thế kỉ, là một quá trình vô cùng gian nan, đầy tranh cãi, với những
câu hỏi còn lại không thể trả lời, những nguyện vọng không thể đáp ứng,
những vấn đề khó lòng giải quyết thỏa đáng. Song nó tránh cho nước Đức
thống nhất, sau gần nửa thế kỉ chia cắt dân tộc, cảnh hận thù và chia rẽ
của “bên thắng cuộc” và kẻ bại trận.
Vụ án xử 7 cán bộ của ngành tư pháp Đông Đức
nói trên cho thấy sự phức tạp ấy và là một bài học đáng nghiền ngẫm về
tư pháp chính trị. Nó kéo dài gần ba năm, từ 1997 đến 2000. Đầu tiên,
Tòa án Tiểu bang Frankfurt/Oder xử cho cả 7 bị cáo trắng án, Viện Công
tố kháng nghị. Tiếp theo, Tòa án Tối cao Liên bang ra quyết định hủy bản
án, chuyển vụ án về một tòa án tiểu bang khác để xét xử lại. Cuối cùng,
Tòa án Tiểu bang Neuruppin, sau 26 phiên tòa, đã kết án 2 trong số 7
người nói trên về tội bẻ cong luật pháp, kết hợp với tội tước đoạt tự do
của người khác, liên quan tới lệnh quản thúc Havemann.
Theo kết luận của tòa, hai cán bộ tư pháp của nhà nước Đông Đức này
đã biết rõ rằng việc truy tố nhà bất đồng chính kiến Havemann không phải
là để thực thi một công lí trên cơ sở xác định sự thật bằng những công
cụ của luật pháp, mà trước hết và chủ yếu là để vô hiệu hóa hay triệt
tiêu một đối thủ chính trị. Họ đã tham dự với đầy đủ ý thức vào một kịch
bản soạn sẵn, được thỏa thuận trước với những cơ quan và cá nhân đứng
ngoài ngoài hệ thống tư pháp, với bản án đã định trước ngay từ đầu. Với
những bản án bỏ túi và phiên tòa trình diễn đó, họ đã vi phạm chính luật
pháp của Đông Đức, nơi nguyên tắc “xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” cũng được long trọng ghi trên mặt giấy.
*
Khi nhận lệnh quản thúc, ông Havemann tuyên bố: “Tôi đâu có ý
định rời khỏi CHDC Đức, vì mỗi bước đi ở đây là một bước ta có thể chứng
kiến chế độ đã và đang đánh mất toàn bộ uy tín, chỉ cần vài sự kiện và
cú huých từ bên ngoài là đủ để vứt Bộ Chính trị vào sọt rác.” Mười
ba năm sau, Bộ Chính trị Đảng SED quả nhiên biến mất. Cựu Tổng Bí thư
Honecker cùng vợ tháo chạy khỏi đất nước, trốn vào Đại sứ quán Chile tại
Moskva xin tị nạn chính trị.
Nước Đức mất gần 2 thập niên để giải quyết di sản của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa
Đông Đức. 374 vụ bẻ cong luật pháp với 618 bị cáo được đưa ra xét xử,
trong đó 5 người bị phạt tiền, 176 người bị kết án tù, trong đó có 63
thẩm phán, 56 công tố viên, 5 thẩm phán và công tố viên thuộc tòa án
quân sự và 41 nhân viên tư pháp khác. 8 trong số này chịu án tù từ 5 đến
10 năm.
Thật khó hình dung, mười, hai mươi năm, ba mươi năm hay năm mươi năm
nữa chúng ta sẽ làm gì với di sản của nền tư pháp Việt Nam hiện tại.
Những thẩm phán, đại diện Viện Kiểm sát và các nhân viên tư pháp tham
gia các vụ xét xử những người bất đồng chính kiến, mới hôm kia là
blogger Trương Duy Nhất, bằng những bản án bỏ túi rồi sẽ phải chịu trách
nhiệm gì? Chúng ta hay tự an ủi rằng họ sẽ phải đứng trước tòa án của
lương tâm và tòa án của lịch sử. Song lương tâm thường phán quyết có lợi
cho chủ của nó. Còn đợi lịch sử xếp xong lịch xét xử thì thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự đã hết từ lâu.
© 2014 pro&contra