Nguyễn Hữu Đang - Một nhân cách cao quý
Nguyễn Thượng Thành
Hôm nay kỷ niệm đúng 100 năm ngày
sinh cụ Nguyễn Hữu Đang (15/8/1913 -15/8/2013), một nhà báo có lương tâm, một
trong những thành viên sáng lập Hội truyền Bá Quốc ngữ và là người chỉ huy dựng
lễ đài độc lập cho ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945.
Nguyễn Hữu Đang là người không chịu dùng tài năng của mình để bẻ cong ngòi bút và
không chịu uốn thấp nhân cách để làm những điều đi ngược
lại với lương tâm. Nguyễn Hữu Đang tham gia Phong trào Nhân văn - Giai Phẩm và
sau đó, mặc dù bị đe dọa khủng bố, nhưng với bản chất thẳng thắn cương nghị của
mình, ông nhất quyết không chịu “đấm ngực nhận tội” và đặc biệt ông nhất định
không bao giờ đứng ra tố cáo những anh em văn nghệ sĩ khác. Cái giá cho sự
nghĩa khí này là ông phải chịu sự đàn áp và trả thù tàn bạo với mức án 15 năm
giam cầm ở Hà Giang. Trước khi bị bắt, Nguyễn Hữu Đang cũng đã phải chịu những
đòn đánh ác hiểm, cay nghiệt bằng nhiều bài báo của các “dư luận viên” của Đảng
hồi đó. Dưới đây là một đoạn trong bài “Con đường phản cách mạng của Nguyễn Hữu
Đang” của tác giả Hồng Vân, đăng trên tạp chí Văn Nghệ số 12, tháng 5 năm 1958:
“Nguyễn Hữu Đang tên bất học vô thuật này, nhảy vào văn nghệ với thủ đoạn của một tên khiêu khích, cũng chẳng tài giỏi gì hơn là cóp nhặt một số luận điệu, một số danh từ của những phần tử cơ hội chủ nghĩa đã ném ra, xuyên tạc những chính sách văn nghệ đúng đắn của Lên-nin, của Đảng cộng sản Trung Quốc, để tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng ta trên văn nghệ…”
“Nguyễn Hữu Đang tên bất học vô thuật này, nhảy vào văn nghệ với thủ đoạn của một tên khiêu khích, cũng chẳng tài giỏi gì hơn là cóp nhặt một số luận điệu, một số danh từ của những phần tử cơ hội chủ nghĩa đã ném ra, xuyên tạc những chính sách văn nghệ đúng đắn của Lên-nin, của Đảng cộng sản Trung Quốc, để tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng ta trên văn nghệ…”
Nguyễn Hữu Đang được ra tù năm 1973 nhưng ông vẫn
phải chịu sự ghẻ lạnh, xa lánh của xã hội. Tổng cộng thời gian ông bị cầm tù
oan khuất và sống trong buồn tủi và cô đơn là gần 30 năm trời. Những năm cuối
đời Nguyễn Hữu Đang sống trong cô độc, không vợ không con và nhờ vào nguồn thực
phẩm chính là côn trùng, cóc nhái. Hãy nghe Phùng Quán, người bạn nghĩa tình đã
giúp đỡ rất nhiều cho ông trong những năm đó viết về sinh hoạt của Nguyễn Hữu
Đang:
“Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng khoảng 5
mét vuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang
sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may-ô thủng
nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ
hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Động
vào chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai. Sau đó tôi được anh giải
thích tác dụng của chùm lục lạc: Đi lại trong đường làng những đêm tối trời,
anh thường bị cánh thanh thiếu niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào, làm
anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng bào các dân tộc ở Việt
Bắc, treo mõ vào cổ trâu – trâu gõ mõ, chó leo thang– anh Đang chế chùm lục lạc
đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xe. Tác dụng thứ hai, quan
trọng không kém... Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục lạc loong
coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ đơn độc…” (*)
Một con người thừa tự trọng, có nhân cách khảng
khái, người không bao giờ bán đứng bạn bè, cương trực và nhân hậu như Nguyễn
Hữu Đang đã từng tâm sự với Phùng Quán về việc đã chọn sẵn chỗ nằm cho mình khi
ra đi: “… một búi tre gần cuối xóm, độc giữa cánh đồng…, dưới chân búi tre ấy
có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ dầy lá tre rụng, rất vừa người … Tôi sẽ
nằm ở đó chết để khỏi phiền ai … Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò
kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay” (*)
Hôm nay cầm trên tay bức ảnh cụ Nguyễn Hữu Đang tặng vợ chồng Phùng Quán, thấy trong lòng dấy lên một nỗi xót xa cho thân phận những văn nghệ sĩ, trí thức có thừa tài năng và nhân cách nhưng vì bất phùng thời mà cả cuộc đời đã trở thành những nạn nhân đau khổ, oan khuất của một chế độ mà họ đã từng đem tâm huyết và trí tuệ của mình để tận tâm phục vụ.
Hôm nay cầm trên tay bức ảnh cụ Nguyễn Hữu Đang tặng vợ chồng Phùng Quán, thấy trong lòng dấy lên một nỗi xót xa cho thân phận những văn nghệ sĩ, trí thức có thừa tài năng và nhân cách nhưng vì bất phùng thời mà cả cuộc đời đã trở thành những nạn nhân đau khổ, oan khuất của một chế độ mà họ đã từng đem tâm huyết và trí tuệ của mình để tận tâm phục vụ.
___________
(*) Ngày cuối năm tìm thăm người dựng lễ đài Tuyên ngôn độc lập in trong cuốn Ba phút sự thật.
(*) Ngày cuối năm tìm thăm người dựng lễ đài Tuyên ngôn độc lập in trong cuốn Ba phút sự thật.
Ông Đang
Phạm Xuân Nguyên
Mỗi số phận chứa một phần lịch sử
(E. Evtushenko)
1. Họp mặt cuối năm tạp chí Tia Sáng, vừa thấy tôi ló mặt vào hội
trường Bộ Khoa học và Công Nghệ, ông Lê Đạt vẫy lại nói: “Anh Đang mất rồi,
Nguyên”.
“Mất lúc nào
vậy anh?
Sáng nay
(8/2/2007).
Trước anh Quán
một ngày (nhà thơ Phùng Quán mất vào ngày âm là 22 tháng Chạp).
Ừ. Sáng ngày
ông Công đưa ma.
Nơi nào đứng
ra làm tang lễ, anh?
Tao bảo thằng
Quốc (Dương Trung) đứng ra, nhân danh Hội truyền bá quốc ngữ. Cứ để anh em
trong nhóm làm mãi. Mà mày viết một bài về anh Đang đi.
Anh viết mới
phải chứ, cùng hội cùng thuyền. Em
là lớp hậu sinh.
Hậu sinh càng phải viết. Mà mày cũng cùng hội chứ
sao ! »
Về nhà mở email, có thư của anh Nguyễn Ngọc Giao ở
nhóm Diễn Đàn từ Paris với chữ URGENT: «Choa thân mến, vừa nghe tin ông
Nguyễn Hữu Đang từ trần hôm qua. Choa có thông tin gì (xác nhận, precision...)
thì cho biết ngay nhé».
2. Tôi biết gì về ông Đang?
« Mừng sống dai
Nguyễn Hữu Đang chiến sĩ kách mệnh. Trưởng ban
tổ chức ngày đại lễ của đất nước Tuyên Ngôn Độc Lập mùng 2 tháng 9 năm 1945 tại
Quảng trường Ba Đình Hà Nội. 1992 (Nhâm Thân) 80 xuân ngồi trầm tư tại bản quán
trong căn hộ độc thân - nguyên cái chái bếp của tập thể giáo viên trường phổ
thông cơ sở thôn Trà Vy, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương, Thái Bình. Chúng tôi
Phùng Cung và Phùng Quán (em kết nghĩa) xin trân trọng kính mời : đúng 10 giờ
30 ngày 20 tháng 11 năm 1992 đến tại nhà riêng chúng tôi số 10 Thụy Khuê - khu
tập thể giáo viên trường Chu Văn An, uống chung rượu khổ sâm mừng sự sống dai.
Phùng Cung và Phùng Quán.”
Tôi không biết gì về ông Đang !
Tháng 11/1992, nhà thơ Phùng Quán đưa tôi một giấy
mời :
In cùng những dòng này là bức ảnh
ông Đang ngồi trong xó nhà của mình ở Thái Bình sáng mồng một tết Nhâm Thân
(1992) kèm dòng chữ “Nguyễn Hữu Đang. Tám mươi xuân - trai tân - độc thân”. Mặt sau giấy mời là bản chụp lại
trang bìa tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số đặc biệt kỷ niệm 45 năm Cách
Mạng Tháng Tám (1990) ghép với phần chụp bài viết trong tạp chí đó nói về vai
trò của Nguyễn Hữu Đang, trưởng ban tổ chức ngày tuyên bố độc lập 2/9/1845.
Phần chụp này là đoạn công bố hai bức thư do Nguyễn Hữu Đang viết gửi ông Thị
trưởng Hà Nội.
Thư 1: “Kính gửi ông Thị trưởng
Hà Nội
Bộ Tuyên truyền của Chính phủ lâm thời sẽ tổ chức ngày 2-9-1945 một “Ngày Độc Lập”. Muốn cho ngày ấy có một tính cách thiêng liêng, Ban Tổ chức chúng tôi yêu cầu Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền, nhà thờ phải cho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt trầm hương suốt ngày hôm ấy để mừng Ngày Độc Lập.
Kính
thư
Nguyễn
Hữu Đang”.
Thư 2: “Kính gửi ông Thị trưởng
Hà Nội
Nhân “Ngày Độc Lập”, chúng tôi yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và hai bên những phố lân cận. Còn về lễ chào quốc kỳ, chúng tôi nhờ ngài cho sửa soạn một chiếc cột cao 12 thước tây và bánh xe (poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng cột cho phu Tòa Thị chính.
Kính
thư
Nguyễn
Hữu Đang”.
Tôi đã bỏ lỡ dịp gặp ông Đang lần
đầu này do “nhát sợ” trước một lời khuyên (chuyện đó tôi đã kể trong bài viết Nhớ ông Quán). Mãi sau tôi mới gặp ông
khi ông Quán mất và những dịp giỗ ông Quán. Gặp nhưng vẫn không biết gì về ông.
Ông Đang vẫn là một khối bí ẩn đối với tôi.
Trong
một lần giỗ ông Quán, khi ấy vẫn ở tại nhà bên Hồ Tây, nhân nhắc lại chuyện
mừng thọ ông Đang, có người đã chép lại cho tôi bài thơ làm ngay dịp đó tặng
“người sống dai”:
Bốn mặt Tây Hồ bát ngát trông
Nơi đây bè bạn tới mừng ông
Sống dai tám chục còn dư sức
Chết ẻo trong tù có uổng công
Tuyệt thế nhân gian ờ cứ thế
Bắc Hà “hào kẹt” có tên ông
Thân hữu xa gần nâng cốc rượu
Trăm năm duyên nợ biết bao xong!
(Tùng
Quân)
“Hào kẹt” là viết chại của “hào
kiệt” để hiểu theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
3. Khi Đổi Mới xướng lên, nhiều
vấn đề tồn đọng của lịch sử hiện đại Việt Nam được xới ra, lật lại, nhiều nhân
vật bị khuất lấp được chiếu sáng. Ông Đang với tư cách một yếu nhân của Hội
truyền bá quốc ngữ được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trách nhiệm tổ chức ngày lễ
độc lập 2/9/1945 dần dần hiện hình trở lại trên dòng thời gian và lịch sử.
Nhưng điều đó không thành được sự “bảo chứng” để nói về ông Đang với tư cách
một nhân vật chủ chốt của phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm, như nhiều người mong
đợi. Cho đến hôm nay, khi ông nằm xuống, vụ việc này vẫn chưa được bạch hóa và
con người ông trong đó vẫn bị che phủ, dẫu đã nửa thế ký trôi qua.
Trong một bản
viết cho một nhà nghiên cứu nước ngoài về phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm vào
cuối tháng 11/1998 tại Hà Nội, ông đã phân tích nguyên nhân sâu xa của hiện
tượng này như sau:
“1. Ý thức,
tư tưởng chủ đạo của phong trào là chống lại sự biến chất của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam từ chế độ chuyến chính thông thường đã bắt đầu có xu hướng hướng
cực quyền (còn gọi là toàn trị, tiếng Pháp là totalitarisme,
tiếng Anh là totalitarian) trong đó con người bị cưỡng bức toàn diện,
triệt để nhiều khi tàn nhẫn đến vô nhân đạo, phi nhân văn, biến con người bị
trị thành nô lệ của một tập đoàn thống trị ít người và duy ý chí tuy nhân danh
cách mạng mà hành động, nhưng hiệu quả khách quan của hành động lại phản tiến
hóa.
Sự biến chất
này do ảnh hưởng tai hại của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao Trạch
Đông, cả hai đều tự nhận là chủ nghĩa Mác-Lênin! Rất tiếc là lúc ấy Đảng
c.s. Việt Nam
tin là như thế.
Phong trào còn
lo ngại đáng lẽ chế độ chuyên chính vốn chỉ là một biện pháp bất đắc dĩ cách
mạng phải dùng đến, trong thời gian ngắn gọn tiếp theo liền Tổng khởi nghĩa, để
củng cố chính quyền vừa mới giành được, nhưng khi nó đã trở thành chế độ cực
quyền, toàn trị, nó sẽ kéo dài không thời hạn, nghiễm nhiên tự coi như hình
thái “đích thực”, “chân chính” của chủ nghĩa xã hội khoa học mà loài người mong
ước sau những mò mẫm vô hiệu quả của chủ nghĩa xã hội không tưởng.
2. Ý thức, tư
tưởng chống đối này âm ỷ từ lâu trong lòng những người trí thức và văn nghệ sỹ
Việt Nam, ngay trong các đợt chỉnh huấn và cải cách ruộng đất
được tiến hành song song với kháng chiến đánh thực dân Pháp mấy năm cuối. Đến
năm 1956, gặp hoàn cảnh thuận lợi, nó nổ bùng ra thành động cơ
sôi nổi của một cuộc đấu tranh mãnh liệt trong nội bộ dân tộc Việt Nam.
Sự kiện đó sẽ tồn tại mãi trong lịch sử Việt Nam như một cái mốc đánh dấu bước chuyển
tiếp từ giai đoạn đấu tranh giành độc lập sang giai đoạn đấu tranh giành
dân chủ.
Việc chuyển
hướng là cần thiết, nó phù hợp với một tất yếu lịch sử, đáp ứng nhu cầu đời
sống và tiến hóa xã hội. Trước mắt, nó là nguyện vọng cao cả của
nhân dân. Chính Cụ Hồ, trước khi vĩnh biệt cuộc đời cũng để lại một lời
tuyên bố nổi tiếng - sau khi đã nêu ra khẩu hiệu cho toàn dân: “Không có gì quý
hơn độc lập tự do” - vừa mạnh bạo nhận trách nhiệm, vừa thắm thiết ân tình: “Nước
độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập chẳng có nghĩa lý
gì”. Nếu chúng ta hiểu “tự do” đây là dân chủ thì câu nói chí tình
của ông cụ không xa cách cái thiện chí của phong trào “Nhân văn-Giai phẩm”
nhiều lắm”.
Ông Đang viết
tay, những từ những đoạn gạch chân là của ông.
Gottwald được vây giữa các
đồng chí của mình, đứng sát ngay cạnh ông là Clementis. Tuyết rơi, trời lạnh,
Gottwald để đầu trần. Clementis đầy ân cần cởi chiếc mũ lông không vành của
mình ra và đặt nó lên đầu Gottwald.
4. Tôi đang đọc tiểu thuyết Sách cười và lãng quên của Milan
Kundera. Đây là đoạn mở đầu của tác phẩm này:
«Tháng
hai 1948, nhà lãnh đạo cộng sản Klement Gottwald đứng trên ban công một cung
điện baroc ở Praha diễn thuyết trước đám đông hàng trăm nghìn công dân tụ tập
trên quảng trường Thành Phố Cũ. Đây
là một bước ngoặt trọng đại trong lịch sử xứ Bohêm. Một thời khắc định mệnh mà
nghìn năm chỉ xảy ra một hay hai lần.
Ban tuyên huấn của đảng đã
cho in ra hàng trăm nghìn bản tấm ảnh chụp cái ban công nơi Gottwald đội chiếc
mũ lông không vành đứng giữa các đồng chí đang nói chuyện với nhân dân. Chính
trên cái ban công đó đã bắt đầu lịch sử của xứ Bohêm cộng sản. Tất cả trẻ em
đều biết tấm ảnh này vì đã thấy chúng trên các áp phích, trong sách giáo khoa
hay trong các bảo tàng.
Bốn năm sau, Clementis
bị kết án phản bội và bị treo cổ. Ban tuyên huấn của đảng lập tức cho ông ta
biến khỏi Lịch Sử, và dĩ nhiên cũng biến khỏi tất cả các tấm ảnh. Từ đây,
Gottwald chỉ còn một mình trên cái ban công. Nơi trước đây Clementis đứng giờ
chỉ còn lại bức tường trống của cung điện. Còn về Clementis thì chỉ còn lại
chiếc mũ lông không vành trên đầu Gottwald.” (Theo bản tiếng Pháp Le livre du rire
et de l’oubli, Gallimard, Paris, 1985).
5. Đám tang ông Đang diễn ra sáng
ngày ông Táo Bính Tuất về giời (10/2/2007) tại nhà tang lễ số 5 Trần Thánh
Tông, Hà Nội. Một liên danh các cơ quan có dính dáng đến những ngành nghề ông
Đang từng làm đứng ra chủ tang: Bộ Giáo dục và đào tạo, Ban liên lạc Hội truyền
bá quốc ngữ, Ban liên lạc Hội diệt dốt, Báo Văn Nghệ... Trưởng ban tang lễ là
ông Chánh văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quan chức cao nhất đến viếng là bà
thứ trưởng Bộ này. Ông bộ trưởng Bộ này bận việc, gửi vòng hoa đến viếng. Bà
Ngô Thị Kim Thoa (vợ ông Phùng Cung) và bà Vũ Bội Trâm (vợ ông Phùng Quán) chít
khăn tang lên đầu, viếng xong, đứng cùng thân quyến ông Đang bên linh cữu chịu
tang, thay chồng làm bổn phận người em.
Tôi
cùng nhà văn Nguyên Ngọc viếng ông Đang một vòng hoa trắng. Khá nhiều vòng hoa
trắng viếng ông Đang. Chị bán hoa tang bảo: cụ ấy không vợ không con thì hoa
trắng là đúng rồi, nhưng thọ thế thì em sẽ viền thêm hoa cúc vàng xung quanh.
Lại bảo: anh đứng đây chờ em làm hoa xong để theo anh mang vào, chứ đám này bọn
em không được tự mình mang hoa vào trong cho khách như các đám khác. Tôi hỏi vì
sao. Chị ta bảo là họ đặt biển báo kia rồi. Tôi đi tới cổng nhà tang lễ và thấy
một tấm biển nền đỏ chữ vàng có chân đứng đặt ở lối ra vào: “Chú ý: Khách đến
viếng vui lòng tự mang hoa vào. Xin cảm ơn.”. Biển làm sẵn thế này là dùng cho
những lúc cần dùng như thế này. Vào viếng cùng lượt với chúng tôi là nhà thơ
Dương Tường mang vòng hoa bị hàng hoa đề sai tên mình thành ra rất tếu với ông
Đang “Thương tiếc Anh, Dương Cường”. Viếng xong lượt mình, chúng tôi lại đi
cùng đoàn viếng của talawas do nhà thơ Hoàng Hưng dẫn đầu. Giới thiệu đoàn này
vào viếng, người xướng danh chỉ nói là đoàn nhà văn, nhà báo, vờ như không thấy
cái tên talawas trong phiếu đăng ký viếng và trên băng tang vắt ngang vòng hoa.
Ông
Đang nằm vây phủ lụa vàng trong quan tài mở nắp. Chín mươi lăm tuổi (âm) một
đời người, ông còn gì, để lại gì, sau khi thân thể tan thành tro bụi (hỏa
thiêu). Cái quan định luận. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo chép lại cho họ hàng ông
Đang đôi câu đối ông làm khi ra tù về quê (1994) mà ông đã ghi vào sổ tay anh:
“Nào công, nào tội, nào nhục, nào vinh, thương số phận Khuất Nguyên, Nguyễn
Trãi / Vận nước, vận nhà, biết thời, biết thế, quý cuộc đời Phạm Lãi, Trương
Lương”. Từ Đà Lạt, nhà thơ Bùi Minh Quốc nhờ chị Vũ Bội Trâm đặt viết trên lụa
đôi câu đối viếng ông Đang: “Dâng Tổ Quốc kỳ đài Độc Lập vun gốc Nhân Văn một
đời trong trắng / Hiến Nhân Dân diệu lý Tự Do đắp nền Pháp Trị muôn thuở sáng
ngời”.
Tôi
ghi sổ tang:
“Ông Nguyễn Hữu Đang là ai?
Ông truyền bá quốc ngữ.
Ông tổ chức ngày độc lập
2/9/1945.
Ông làm Nhân Văn-Giai
Phẩm.
Ông đã sống và đã chết Một
Con Người.
« Mỗi số phận chứa
một phần lịch sử »
Nền dân chủ tự do của nước
Việt sẽ có ghi tên Ông »
Hà Nội 8 - 10/2/2007
Nguồn: Quê Choa