Niall Ferguson
Đỗ Kim Thêm dịch
Đỗ Kim Thêm dịch
Lời người dịch: Nguyên tác Anh ngữ của bản dịch là The Landscape of Law, Chương III trong tác phẩm The Great Degeneration - How Institutions Decay and Economies Die, Allen Lane, 2012 của Niall Ferguson. Tác giả đặt vấn đề là Trung Quốc và các nước chậm tiến dù có đủ loại luật lệ nhưng thể không áp dụng nghiêm minh vì thiếu một bối cảnh luật pháp thích hợp và để cải cách luật pháp cần học ở phương Tây. So sánh hai truyền thống luật La Mã và Anh ngữ, tác giả chứng minh hệ thống luật Anh ngữ là mô hình về thể chế pháp quyền thích hợp hơn, nhưng mọi sự cóp nhặt thiếu chọn lọc khôn ngoan sẽ phản tác dụng trong tiến trình du nhập.
Với The Great Degeneration Ferguson cảnh báo là thể chế của phương Tây đang tàn lụn vì bốn trụ cột nền tảng là dân chủ đại nghị, kinh tế thị trường, thể chế pháp quyền và xã hội dân sự không còn đứng vững mà suy trầm kinh tế, nợ công chồng chất, dân số lão hoá và thái độ vị kỷ của con nguời là nguyên nhân.
Do ưu thế địa lý, khí hậu và trình độ khoa học mà phương Tây đã lãnh đạo văn minh thế giới trên 1500 năm. Ngày nay dân chủ không còn dựa trên căn bản hợp đồng giữa người dân và chính quyền, không đem đến ổn định trong hiện tại và công bình cho thế hệ tương lai. Quy luật kinh tế thị trường chuyển biến cực kỳ phức tạp và không thể kiểm soát nên gây xáo trộn cơ chế vận hành và thiệt hại cho người tiêu thụ. Dù thể chế pháp quyền là để bảo vệ công bình xã hội, nhưng luật pháp trở nên quá chuyên môn và khó hiểu nên giúp cho các luật sư càng thêm thao túng tiền bạc, làm cho tranh tụng cực kỳ tốn kém và công lý là món hàng đắt giá. Xã hội dân sự không còn năng động cải cách, vì con người thờ ơ trước các biến chuyển thời cuộc và các nhóm lơị ích áp lực nặng nề hơn. Vì phương Tây lãng phí nhiều thời gian và năng lực nên mọi nổ lực bị trì trệ và đã đến lúc nên cảnh tỉnh là cải cách càng bức thiết hơn bao giờ hết.
Niall Ferguson là giáo sư môn Lịch Sử Kinh tế và Tài Chính tại Đaị Hoc Harvard. Ông nổi danh với những tác phẩm The Pity of War, The Rise and Fall of the American Empire và The Ascent of Money, A Financial History of the World. Tuần báo Times sắp ông vào trong danh sách 100 trí thức có ảnh hưỏng nhất hiện nay trên thế giới.
Nguyên bản Anh ngữ là một chương thanh phát thanh của The 2012 BBC Reith Lectures Radio 4 và có thể truy cập tại đây. Tựa đề bản dịch là cuả người dịch.
„Vấn đề căn bản nhất mà chính phủ Trung Quốc phải đối phó là tình
trạng không luật lệ. Trung Quốc không thiếu luật mà là thiếu về uy lực
pháp quyền... Vấn đề xã hội không luật pháp sẽ là một thách thức quan
trọng nhất mà giới lãnh đạo mới phải đối đầu khi họ được thành lập vào
mùa thu này. Thực vậy, ổn định chính trị của Trung Quốc có thể tùy thuộc
vào khả năng phát triển thể chế pháp quyền trong hệ thống đang hiện
có.“
Đó là lời tuyên bố của Trương Quang Thành, một luật sư khiếm thị,
người mà gần đây đã được phép rời Trung Quốc sang Hoa Kỳ du học sau khi
đã thành công trốn thoát sự truy nã của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Hồ Duy
Phương, một học giả luật khác ít được phương Tây biết nhưng lại có
nhiều ảnh hưởng hơn ở Trung Quốc, nhận định thẳng thừng trong tiểu luận
"Những bước đầu tiên của thuyết hiến định“ ấn hành vào năm 2003: „Bối
cảnh luật pháp tại phương Tây đem lại mối tương phản kỳ thú và rõ rệt
nếu so với tình hình luật pháp Trung Quốc, hé lộ sự thiếu nhất quán và
tương xứng của hai hệ thống. Dù hệ thống hiện đại của Trung Quốc vay
mượn từ phương Tây, mọi việc thường tiến hành trong các phương cách khác
nhau giữa Trung Quốc và phương Tây.“
Đề tài mà tôi thuyết trình trong chương trình thứ ba của Reith là
khung cảnh luật pháp. Tôi muốn đặt vấn đề là những nước đang phát triển
như Trung Quốc có thể tiếp thu về thể chế pháp quyền của phương Tây được
không. Tôi muốn đưa ra vài nghi vấn về suy đoán khả phổ biến là hệ
thống pháp luật của phương Tây đang lành mạnh. Điều mà Trung Quốc cần
làm là sao chép những kinh nghiệm tốt nhất của chúng ta, bất kể loại
kinh nghiệm nào.
Nhưng đâu là ý nghĩa đích thực của thể chế pháp quyền? Trong một cuốn
sách có cùng tựa đề, vị chánh án tối cao đã quá cố là Lord Tom Bingham
đã quy định bảy tiêu chuẩn mà chúng ta phải xét đoán trong hệ thống luật
pháp:
1. Luật pháp phải được tiếp cận, càng dể hiểu càng tốt, rõ ràng và có thể tiên đoán được
2. Những vấn đề quyền luật định và trách nhiệm phải được giải quyết đúng cách bằng cách áp dụng luật pháp, không do những cách hành sử chuyên đoán.
3. Các loại luật pháp trong nước phải được áp dụng công bình cho tất cả mọi người, tránh mở rộng những khác biệt khách quan (thí dụ thiếu năng lực tinh thần) biện minh mọi sự phân biệt.
4. Các bộ trưởng và công chức các cấp phải hành sử thẩm quyền theo mục tiêu quy định trong sự thành tín, công bình, không vượt giới hạn của những quyền này.
5. Luật pháp phải mang lại sự bảo vệ phù hợp về tôn trọng nhân quyền.
6. Luật pháp cung ứng phương tiện để giải quyết các tranh tụng dân sự nhưng không tốn kém hay chậm trể, trong sự thành tín mà các phe không thể tự giải quyết, và
7. Nhà nước cung ứng thủ tục tài phán công bình.
2. Những vấn đề quyền luật định và trách nhiệm phải được giải quyết đúng cách bằng cách áp dụng luật pháp, không do những cách hành sử chuyên đoán.
3. Các loại luật pháp trong nước phải được áp dụng công bình cho tất cả mọi người, tránh mở rộng những khác biệt khách quan (thí dụ thiếu năng lực tinh thần) biện minh mọi sự phân biệt.
4. Các bộ trưởng và công chức các cấp phải hành sử thẩm quyền theo mục tiêu quy định trong sự thành tín, công bình, không vượt giới hạn của những quyền này.
5. Luật pháp phải mang lại sự bảo vệ phù hợp về tôn trọng nhân quyền.
6. Luật pháp cung ứng phương tiện để giải quyết các tranh tụng dân sự nhưng không tốn kém hay chậm trể, trong sự thành tín mà các phe không thể tự giải quyết, và
7. Nhà nước cung ứng thủ tục tài phán công bình.
Môn lịch sử trong chương trình ban cử nhân của tôi tại Oxford dạy cho
tôi là uy lực pháp quyền của Anh là kết qủa của một tiến trình tiệm
tiến về các quyết định tư pháp tại các toà án, phần lớn dựa trên các án
lệ. Bây giờ tôi mới hiểu đúng ra đây là một quan điểm ngây thơ. Ronald
Dworkin, một nhà lý thuyết lừng danh đương đại trong hệ thống luật Anh
ngữ, giải thích trong tác phẩm Law´s Empire là đích thực có những nguyên
tắc công bình và sòng phẳng làm cơ sở cho hệ thống luật pháp chung của
Anh, ngay cả khi những nguyên tắc này không được điển chế như những
nguyên tắc trong Hiến Pháp Hoa Kỳ.
Đằng sau việc vận hành luật pháp có hai vấn đề: sự liêm khiết của các
chánh án và, trích theo lời của Dworkin, thì "lập pháp… xuất phát từ
kết ước hiện nay của cộng đồng đến những kế hoạch nền tảng của đạo đức
chính trị"
Hiện nay, nguồn gốc đạo đức của pháp luật chuyển sang những hậu quả
kinh tế của nó mà đúng ra có thể xem là một bước tiến. Nhưng không phải
như vậy. It sự thật nào được công nhận một cách phổ biến hơn là uy lực
pháp quyền - đặc biệt khi uy lực này nhằm giới hạn bàn tay chụp giựt của
nhà nước tham lam, vì đây là điều tốt cho tăng trưởng kinh tế cũng như
công bình.
Theo Douglas North thì "khi xã hội thiếu khả năng phát triển việc
chấp hành hợp đồng hữu hiệu và ít tốn kém thì đó là lý do quan trọng
nhất về trì trệ lịch sử và kém phát triển hiện nay".
Thi hành hợp đồng do đệ tam nhân thực hiện là cần thiết để vượt qua
mọi trì trệ của các đại lý tư nhân khi dịch vụ của họ có cách biệt về
điạ lý và thời gian. Chủ nợ thường sợ người vay không trả nợ khi vay.
Các tác nhân tư như công ty giao hoán, tín dụng và trọng tài có thể lãnh
thực hiện thi hành hợp đồng.
Nhưng theo North thì luôn luôn là: "việc thi hành hợp đồng do đệ tam
nhân thực hiện có nghĩa làm cho nhà nước phát triển như cơ quan cưỡng
chế, có khả năng hữu hiệu nhằm theo dõi quyền tư hữu và thi hành hợp
đồng."
Vấn đề là nhà nước không được lạm quyền - và do đó cần giới hạn quyền
nhà nước. Avner Greif lập luận khi cơ quan thi hành hợp đồng thuộc về
nhà nước, mà cơ quan lại lộ tin tức về điạ điểm và giá trị các tài sản
tư nhân, thì chính nhà nuớc hay các công chức phục vụ có thể tìm cách
tước đoạt tài sản ấy.
Bởi thế, ở đâu mà nhà nước không bị luật pháp ràng buộc, thì ở đó
những thể chế tư nhân lo chuyện chấp hành hợp đồng tạo an toàn hơn, như
hệ thống mạng lưới các thương nhân Maghibi ở vùng bờ biển Địa Trung Hải
vào thế kỷ XI, họ chỉ dựa trên mối ràng buộc của Do Thái giáo và quan hệ
thân tộc. Cùng với các hiệp hội thời Trung cổ, các thể chế này thất bại
khi có khuynh hướng đề ra những rào cản về thâm nhập thị trường và
thiết lập những độc quyền mậu dịch, cản trở cạnh tranh và giảm bớt hiệu
năng kinh tế. Đó là lý do tại sao thi hành hợp đồng tư nhân có khuynh
hướng nhường bước cho nhà nuớc khi nền kinh tế trở nên phức tạp hơn.
Nhưng tiến trình này tùy thuộc vào sự giới hạn việc sử dụng quyền cưỡng
chế nhà nước, nhờ đó mà quyền tư hữu được tôn trọng.
Thượng tôn luật pháp đó chính là chức năng chủ yếu trong kinh tế học.
Thực ra, tôn trọng quyền tư hữu còn quan trọng hơn nhân quyền.
Không phải hệ thống dân luật của Pháp, bắt nguồn từ truyền thống luật
La Mã, cũng không phải hệ thống luật pháp của Đức và Bắc Âu là tốt đẹp,
mà không nói đến hệ thống luật pháp của các nước không thuộc phương
Tây.
Điều gì đã và đang làm cho hệ thống luật truyền thống Anh tốt đẹp hơn về phương diện kinh tế?
Trong một tiểu luận có ảnh hưởng sâu đậm vào năm 1997, La Porta,
Lopez-de -Silanes, Shleifer và Visnhy lập luận rằng hệ thống luật của
Anh tạo điều kiện rộng rãi để bảo vệ cho các chủ đầu tư và các chủ nợ.
Kết quả là dân có tiền thích đầu tư và cho giới doanh nhân vay mượn
nhiều hơn các giới khác Giới trung gian tài chính cao cấp có khuynh
hướng gây tác động cho tỷ lệ tăng trưởng cao hơn.
Giống như một vài lập luận trong khoa học xã hội, lý thuyết về nguồn
gốc của luật pháp này hàm ngụ một vài lối giải thích của lịch sử: Tại
sao luật của Pháp rốt cuộc đưa tới tình trạng tồi tệ hơn Anh?
Vì hoàng gia Pháp thời trung cổ có quá nhiều chuyên quyết trong các
đặc quyền hơn ở Anh. Vì về phương diện nội trị thì Pháp ít ổn định hơn
Anh và về đối ngoại thì Pháp lại bị tổn thương nhiều hơn Anh. Vì Cách
Mạng Pháp bất tín nhiệm giới chánh án, nên tìm cách cải biến họ như
người máy, áp dụng luật theo như quy định và điển chế bởi giới lập pháp
hay hoàng đế. Kết quả là ngay cả một hệ thống tư pháp và toà án dù ít
độc lập hơn nhưng vẫn ngăn ngừa việc xét lại những hành vi hành chánh.
Khi Pháp xuất cảng mô hình sang các nước thuộc điạ Á Phi, kết quả càng
tồi tệ hơn.
Lý thuyết về nguồn gốc luật pháp cũng đã có những ảnh hưởng lịch sử
quan trọng đối với những hệ thống luật pháp không thuộc phương Tây. Hồ
Duy Phương lập luận rằng trong thời kỳ quân chủ chính phủ Trung Quốc quy
định „không hề có việc phân quyền mà để cho các quan lại hành sử thẩm
quyền toàn diện kể cả tam quyền căn bản mà cụ thể là hành pháp, lập pháp
và tư pháp.“
Khổng giáo và Lão giáo bày bác vai trò các luật sư và kết án phương
cách phản biện. Những thử nghiệm du nhập các yếu tố của hệ thống luật
pháp Anh vào Trung Quốc bị thất bại. Khi triều đại nhà Thanh tham gia
vào lĩnh vực mậu dịch khá muộn màng, nhà nước làm việc trong một phương
cách phản tác dụng, đánh thuế quá mức các thương nhân, ủy quyền cho các
tập đoàn độc quyền mà không thể tự kiểm soát hoặc uỷ quyền kiểm soát
không hữu hiệu. Kết quả là tham nhũng tràn lan và thu hẹp kinh tế.
Trong những năm gần gần đây có những phản ứng dữ dội chống lại những
giả thuyết về nguồn gốc luật pháp. Naomi Lamoureaux và các tác giả khác
vạch ra rằng nền kinh tế Pháp có nhiều thành tựu tốt hơn, không phải ít
nhất là về mặt tài chính, mặc dù không thuộc về hệ thống luật của Anh.
Đối với tôi, nhược điểm trong lý thuyết này trở thành hiển nhiên, nếu
như chúng ta chỉ nhìn vào tình trạng hệ thống pháp luật của Anh trong
một thời kỳ để làm thí dụ, thì phải thấy là nền kinh tế này có nhiều tốt
đẹp nhất, thí dụ thời kỳ cách mạng công nghiệp, khi mà Anh và các nước
láng giềng vùng biển Celtic thay đổi triệt để về tiến trình lịch sử của
kinh tế thế giới.
Đây là một vài mô tả đương thời về một tòa án của Anh vào thời ấy:
… Một vài thành viên chủ yếu của Luật Sư Đoàn tham gia vào một trong
vô số trong các giai đoạn của một vụ kiện với nguyên nhân bất tận, tạo
cho người khác bị sập vào bẩy của những án lệ khó khăn, dò dẫm ngập đầu
về các chuyện chuyên môn, chạy theo chi tiết để chống lại trong chử
nghĩa và khi những người được phép tham dự làm ra vẻ chuộng công bình
với những khuôn mặt nghiêm nghị.
Nhiều luật sư khác nhau tham gia trong một vụ tố tụng, có khi có hai
hay ba luật sư trong nhóm thừa hưởng vụ kiện do người cha của mình, họ
tạo nên cơ nghiệp do kiện tụng. Họ cấu kết nhau, đứng theo hàng giữa bàn
đỏ của các viên lục sự và các áo thụng luạ với đủ loại giấy tờ từ hoá
đơn, bảng trả lời, lời phản bác, lời khai có tuyên thệ, tài liệu tham
khảo, giấy tờ hàng núi nhưng tốn kém và vô nghĩa sắp đống trước mặt họ.
Đó là Toà Tối Cao ... làm cho kiệt quệ tiền bạc, hết kiên nhẫn, can
đảm, hy vọng, làm cho đầu óc quay cuồng và tâm cang bấn loạn, không có
một người khả kính nào trong giới này đưa ra lời báo động: "Anh hãy chiụ
đựng bất công xảy ra hơn là anh tới đây", thường thì họ không làm như
vậy.
Người ta có thể chê trách Charles Dickens vì ông không công bình đối
với luật giới trong thời của ông qua tác phẩm Bleak House. Dickens khởi
đầu văn nghiệp bằng cách viết các bài tường thuật từ tòa án. Ông ta đã
chứng kiến thân phụ mình bị vào tù vì nợ. Người viết tiểu sử ông xác
nhận rằng ông biết rõ những gì ông đề cập đến. Các sử gia về hệ thống
pháp luật của Anh vào thế kỷ XIX xác nhận chuyện này.
Đầu tiên chúng ta phải ghi nhận tầm vóc nhỏ bé của hệ thống. Vào cuối
năm 1854 toàn bộ hệ thống tư pháp của Anh và Wales chỉ đếm được đúng 15
toà án.
Thứ hai, mãi đến năm 1855 có nhiều luật giới hạn khả năng doanh nhân
lập ra doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, một di sản của thời gian khi
những nhà cổ vũ cho doanh nghiệp độc quyền như South See Compagny thành
công trong việc nâng cao giá trị các cổ phần.
Thứ ba, trong một lĩnh vực quan trọng nhất trong thời kỳ cách mạng
công nghiệp là đường sắt. Những công trình nghiên cứu gần đây tiết lộ
rằng hệ thống luật của Anh và các luật sư của Anh đã gây những tác động
tiêu cực sâu rộng. Các luật sư gây nhiều tiếng xấu khi làm người quảng
cáo các cổ phần đầu cơ cho hoả xa, các chánh án bị công khai cáo buộc
thủ lợi riêng và các luật sư của quốc hội có thủ thuật làm tiền bất
chánh khi chấp thuận bán giấy phép cho mở những đường xe lưả mới.
Chúng ta phải làm gì với chuyện này? Có phải lịch sử phủ nhận luận đề
về nguồn gốc luật pháp mà hệ thống luật pháp Anh đã thắng các hệ thống
khác không? Không hẳn.
Mặc dù có những khiếm khuyết hiển nhiên về hệ thống luật pháp của Anh
trong thời kỳ công nghiệp, vẫn có những bằng chứng hùng hồn mà luật có
thể và đã thích ứng cho sự thay đổi thời gian, ngay cả có thể trong cách
tạo thuận lợi và thích nghi trong tiến trình. Điểm này được minh chứng
rõ rệt nhất khi tham khảo về tranh tụng trong năm 1854 của Hadley và
Baxendale - được sinh viên khoa luật hai bên bờ Đại Tây Dương biết rõ.
Tranh tụng xãy ra giữa hai doanh nghiệp xay bột mì tại Gloucester là
Joseph & Jonah Hadley với Pickford & Co, công ty vận chuyển ở
Luân Đôn. Hadleys kiện Pickfords bồi thường toàn bộ tiền thiệt hại kể cả
doanh thu vì việc giao hàng trễ để thay thế cho một trục máy xay bột
thủ công. Không hề có chuyện trùng hợp là Pickfords hiện nay vẫn còn
hoạt động mà Hadleys thì không.
Dù toà địa phương đã chuẩn y bản án như Hadleys thỉnh cầu nhưng toà
phá án ở Luân Đôn đã không y án. Theo ý kiến của Richard Posner, chánh
án người Mỹ và là một học giả về luật, thì vụ Hadley và Baxendale bao
gồm nguyên tắc „khi nguy cơ thiệt hại chỉ có một bên của hợp đồng biết,
thì phiá bên đối tác không chịu trách nhiệm bồi thường khi thiệt hại xãy
ra.“
Về sau được biết đó là lời tuyên bố gốc của chánh án ở Assize, Sir Roger Crampton. Ông không bao giờ công nhận là khái niệm hệ thống luật của Anh tự thích nghi do một tiến trình liên tục phát triển tạo nên sự thay đổi tình hình khi xã hội thăng tiến.
Về sau được biết đó là lời tuyên bố gốc của chánh án ở Assize, Sir Roger Crampton. Ông không bao giờ công nhận là khái niệm hệ thống luật của Anh tự thích nghi do một tiến trình liên tục phát triển tạo nên sự thay đổi tình hình khi xã hội thăng tiến.
Chắc chắn một điều đây không phải là phương cách của các chánh án toà
phá án là các Nam Tuớc Alderson, Parke và Martin, nếu nói theo ngôn ngữ
của các bình luận gia hiện nay thì họ „đem lại một nội dung mới về luật
bồi thường thiệt hại“. Khi Nam Tước Anderson lập luận :“Chỉ trong những
tình trạng mà nguyên cáo thông báo cho bị cáo biết vào lúc mà hợp đồng
ký kết là các cối xay bị hư. Nhưng không có thông tin về tình trạng đặc
biệt là máy xay phải ngưng và doanh lợi thua lỗ do trì trệ trong việc
giao trục máy“. Do đó, thất thu doanh lợi không thể được cứu xét khi ước
lượng thiệt hại. Khi đơn thuần đặt vấn đề, thì luật này để tạo thuận
lợi cho doanh nghiêp lớn hơn các doanh nghiệp nhỏ - Nhưng thật sự đây là
điểm không quan trọng. Vấn đề ở đây là lập luận của Nam Tước Anderson
minh hoạ được hệ thống luật của Anh như là một trình tự tiến triển, một
tiến trình mà Lord Goff mô tả tài tình trong vụ kiện Kleinwort Benson
với Hội Đồng Thành Phố Luân Đôn vào năm 1999.
Khi một chánh án quyết định một vụ kiện mà ông thụ lý, ông phải dựa
trên cơ sở những hiểu biết về luật khả thi. Việc này có nghĩa là ông
khám phá những luật có thể áp dụng, nếu có thể, ông tìm ra những tiền lệ
bắt nguồn từ những phúc trình hay những quyết định của toà án trước
đây... Trong tiến trình quyết định vụ kiện đang xử lý, tùy theo trường
hợp, ông có thể triển khai hệ thống luật trong khi cứu xét quyền lợi
công lý, dù là trong quy luật tổng quát, ông làm việc này trong sự kết
hợp chặt chẻ. Điều này có nghĩa là ông không chỉ hành động trong khuôn
khổ của những tiền lệ quy định mà còn chú ý tới những thay đổi, coi thay
đổi này như những tiến triển, luôn là những tiến bộ khiêm tốn, xem
những nguyên tắc đang có và xem việc xãy ra như là một phần phù hợp
trong hệ thống luật chung.
Tôi tin rằng việc làm này đem lại một sự hiểu biết hữu ích về đặc
tính tiến hoá đích thực của hệ thống luật Anh. Trong bài thuyết trình
này, tôi muốn đề cập đến một vấn đề khác: Trong thực tế hiện nay, thể
chế pháp quyền tại các nước phương Tây, đăc biệt tại các vùng nói tiếng
Anh, tốt đẹp như thế nào? Tôi nhận ra bốn mối đe doạ.
Đầu tiên chúng ta phải đặt vấn đề quen thuộc là tự do dân sự bị mất
dần trong một nhà nước có vấn đề an ninh quốc gia - một tiến trình mà
thực ra chúng ta tính lui lại từ trăm năm trước từ lúc bùng nổ Thế Chiến
Thứ Nhất và qua đến việc chuẩn y đạo luật 1914 Defence of the Realm
Act. Những thảo luận gần đây về giam giữ tù nhân bị nghi ngờ khủng bố
không đem điều mới lạ. Có chăng là một sự chọn lựa giữa tôn trọng nhân
quyền theo luật và hàng trăm xác chết.
Mối đe doạ thứ hai hiển nhiên hơn mà người ta đặt ra là sự vi phạm
của Luật châu Âu đối với hệ thống luật Anh trong khía cạnh luật dân sự,
đăc biệt là những ảnh hưởng sâu rộng trong việc xác nhập Công Ước Âu
Châu về Quyền Căn Bản và Tự Do 1953. Điều này được coi như là sự trả
thù của Napoleon: hệ thống luật của Anh sẽ tuần tự chuyển hoá theo kiểu
của Pháp.
Mối đe doạ thứ ba là tính phức tạp - và luộm thuộm - của luật thành
văn ngày càng nhiều. Một vấn đề trầm trọng của Bắc Mỹ và Tây Âu khi việc
khởi thảo luật lệ gây hổn loạn tràn lan trong chính giới.
Mối đe doạ thứ tư, đặc biệt nhất thể hiện rõ tại Hoa Kỳ, là chi phí
luật pháp tăng cao. theo Bản Tường Trình của Sở Quản lý Doanh Nghiệp Nhỏ
Hoa Kỳ ước lượng khoảng 1,7 nghìn tỷ đô la hàng năm là chi phí phụ trội
trong việc chấp pháp. Đứng đầu về chi phí này thuộc về hệ thống luật
hình của Hoa Kỳ, theo Pacific Research Institute cho là chiếm khoảng 2, 2
% TSLQG năm 2003.
Người ta có thể lý giải về các số liệu này. Nhưng kinh nghiệm của tôi
cho thấy có một chuyện tương tự: lập một doanh nghiệp mới tại các tiểu
bang thuộc New England dính dáng đến nhiều luật sư và tốn nhiều chi phí
hơn tại nước Anh. Những chuyên gia về cạnh tranh kinh tế, thí dụ như
Michael Porter của Đại học Kinh tế Harvard, định nghĩa vấn đề bằng cách
bao gồm các khiá cạnh như khả năng của chính quyền thông qua những luật
lệ hữu hiệu, bảo vệ tác quyền sỡ hữu vật chất và trí tuệ, không tham
nhũng, hiệu năng của một khung pháp luật, kể cả hệ thống tài phán với
phí tổn thấp và nhanh chóng, dễ dàng trong việc thiết lập doanh nghiệp
và các luật lệ hữu hiệu và có thể tiên đoán được.
Bằng chứng cho thấy là Hoa Kỳ hiện nay đang chịu nhiều thiệt hại
thuộc về lĩnh vực cạnh tranh thể chế, điều này không những tìm thấy
trong những công trình gần đây của Porter mà còn trong trong Bảng Chỉ Số
Cạnh Tranh Toàn Cầu của tổ chức World Economic Forum, và đặc biệt là
của Executive Opinion Survey. Tài liệu khảo sát này bao gồm 15 biện pháp
liên hệ đến thể chế pháp quyền, xếp hạng từ bảo vệ quyền tư hữu đến
kiểm soát tham nhũng và kiểm soát tội phạm băng đảng.
Một sự kiện đáng ngạc nhiên, dù ít khi được công nhận, là trong số 15
biện pháp này Hoa Kỳ bị chấm điểm tệ hơn Hong Kong. Theo Bảng Chỉ Số
của Heritage Foundation`s Freedom, Hoa Kỳ đứng hàng thứ 21 trong Bảng
Chỉ Số không tham nhũng, sau Hong Kong và Singapore.
Có lẽ bằng chứng thuyết phục nhất là của Ngân Hàng Thế Giới về Lãnh
Đạo Toàn Cầu. Theo tài liệu này thì từ năm 1966 Hoa Ký chịu xuống dốc về
phẩm chất lãnh đạo trong ba lĩnh vực: hiệu năng chính quyền, phẩm chất
luật lệ và kiểm soát tham nhũng.
So sánh với Đức và Hong Kong thì Hoa Kỳ tụt hậu hơn nhiều. Một điều
an ủi là Anh không bị suy tàn như vậy trong lĩnh vực phẩm chất thể chế.
Nếu thê chế pháp quyền, định nghĩa một cách rộng rãi, đang suy vi tại
Hoa Kỳ thì ở đâu là nơi tốt hơn? Gần đây tôi nghiên cứu một tài liệu
hữu ích của Ngân Hàng là Bảng Chỉ Số Tăng Trưởng Thế giới, để tìm hiểu
xem nước nào của châu Phi là khá theo các khía cạnh:
1. Phẩm chất của hành chánh công quyền
2. Khuôn khổ cho luật kinh tế
3. Quyền tư hữu và cai trị dựa trên luật pháp
4. Quản lý khu vực công
5. Tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và chống tham nhũng trong khu vực công.
2. Khuôn khổ cho luật kinh tế
3. Quyền tư hữu và cai trị dựa trên luật pháp
4. Quản lý khu vực công
5. Tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và chống tham nhũng trong khu vực công.
Trong 20 nước đứng đầu trong các nền kinh tế đang phát triển có 4
nước hay nhiều hơn lọt vào tiêu chuẩn này là Burkino Faso, Ghana, Malwi
và Rwanda.
Với một cách khảo hướng khác tôi xem trong tài liệu tường trình về
đối tác kinh tế của IFC từ năm 2006 và tìm xem trong các quốc gia đang
phát triển về cách giảm bớt số ngày để hoàn tất hồ sơ trong 6 loại thủ
tục sau đây: xin đăng ký doanh nghiệp, xin giấy phép xây cất, xin đăng
ký tài sản, trả thuế, nhập cảng hàng và thi hành hợp đồng.
Những nước châu Phi đạt được thành tựu này là Nigeria, Gambia,
Mauritius, Botswana và Burundi. Những quốc gia đang trổi dậy đang đi
đúng hướng này là Azerbaijan, Croatia, Iran, Malaysia và Peru. Tôi nói
rằng riêng đối với Iran thì tôi sẽ ngưng đầu tư vào nước này trong năm
nay.
Ngược lại, Trung Quốc đạt được mức tăng trưởng đáng ngạc nhiên mà
không có thể chế luật pháp tốt đẹp và không có cải thiện nhiều trong
lĩnh vực này. Tuy nhiên, một vài học giả lập luận nếu Trung Quốc hiện
nay không chuyển tiếp vào thời kỳ có thể chế pháp quyền thì sẽ phải còn ở
mức thể chế tụt hậu làm giới hạn tăng trưởng trong tương lai.
Trường hợp chống tham nhũng của Bạc Lai Hy tại Trùng Khánh minh chứng
được Trung Quốc tiến bộ trong việc áp dụng uy lực pháp quyền.
Như Hồ Duy Phương vạch ra rằng các chánh án của Trùng Khánh đã hành
sử như một cánh tay nối dài của Bạc, chấp nhận việc tống tiền, bỏ qua
thủ tục điều tra chéo. Từ nhiều năm nay Hồ Duy Phương cổ vũ cho nền tư
pháp độc lập, trách nhiệm của Quốc Hội Nhân Dân, đăc biệt là trong lĩnh
vực đánh thuế, tự do báo chí và thay đổi quy chế Đảng trở thành một thực
thể chinh trị hợp pháp có đăng ký, chịu trách nhiệm trước pháp luật, kể
cả những quyền luật định hiện nay nhưng vô nghĩa theo điều 35 Hiến Pháp
của Trung Quốc.
Đối với một số trong chúng ta, những người đang sống tại phương Tây,
nơi mà luật sư thường dường như trở thành nhóm lợi ích mà họ mong đợi,
thì đương đầu với các luật sư là chuyện lạ khi họ nhắm vào việc thay đổi
cực đoan. Tuy nhiên, hiện nay, nếu tính vào năm 2007 thì luật sư Trung
Quốc chỉ có đúng khoảng 150.000, họ là lực lượng chủ yếu làm phát triển
nhanh chóng khu vực công tại Trung Quốc. Những thăm dò gần đây cho thấy
rằng họ quan tâm mạnh mẽ đến cải cách chính trị và bất mãn sâu xa với
tình trạng chính trị hiện nay.
Khi đọc những lời tuyên bố sau đây của một luật sư tỉnh Hồ Nam buộc
chúng ta phải nhớ lại thời các luật sư là giới tiên phong trong sự thay
đổi trong thế giới nói tiếng Anh.
"Uy lực pháp quyền là khởi điểm cho dân chủ, quyền luật định là tiền
đề cho thể chế pháp quyền, bảo vệ quyền luật định là nguyên ủy của các
quyền lợi và luật sư là giới tiên phong cho việc bảo vệ quyền luật
định".
Trường hợp Bac Hy Lai trong năm nay là một trong những dấu hiệu cho
thấy những phần tử trong nội bộ Đảng Cộng Sản nghe được những lập luận
này.
Trong một diễn văn gần đây tại Thẩm Quyến, Zhang Yansehng, Tổng Thư
Ký Ủy Ban Khoa Học Phát triển và Cải Cách Quốc Gia, lập luận, tôi xin
trích, "chúng ta phải thay đổi dựa trên uy lực pháp quyền", ông nói
thêm, " nếu cải cách này không lan toả, Trung Quốc rơi vào tình trạng
hổn loạn trầm trọng, những vấn đề nguy ngập".
Điều mà chúng ta không biết được là khi Trung Quốc thử nghiệm du nhập
những khái niệm về uy lực pháp quyền sắp tới có thành công hơn trong
quá khứ hay không. Với lý luận thuyết phục, Hồ Duy Phương cảnh báo những
cóp nhặt ngây ngô của hệ thống luật pháp Anh hoặc Hoa Kỳ.
Trong tác phẩm "Giác Mộng Đêm Hè" của Shakespeare ông có viết một
cách tha thiết: "Người đã biến thành khỉ, và người khác thét lên, Xin
chúa phù hộ cho anh, anh đang bị thay đổi".
Việc du nhập hệ thống luật phương Tây vào Trung Quốc cũng giống như
vậy. Hệ thống luật của Anh khi du nhập vào Trung Quốc có thể giống như
chuyện tệ nhất, một trò khỉ hay nếu không cũng là chuyện ngu ngốc.
Giống như tổ chức con người trong chính trị hoặc là lý do săn đuổi
theo nền kinh tế thị trường, bối cảnh luật pháp là một thành phần trong
việc thiết lập thể chế mà chúng ta đang sống. Giống như một cảnh trí
đích thực, thể chế là sản phẩm có tính hữu cơ, một sản phẩm của một tiến
trình lịch sử chuyển động chậm chạp - một loại điạ chất học của luật
pháp.
Nhưng đây cũng là một khung cảnh theo ý nghĩa của Brown: nó có thể
được cải thiện. Và đó cũng có thể tạo nên chuyện đáng sợ, ngay cả trở
thành một sa mạc, bằng các áp đạt quá vội những mô hình ảo tưởng. Chúng
ta có thể hình dung ra những khu vườn phương Đông tại Anh và những khu
vườn Anh tại phương Đông. Dĩ nhiên, cũng có những thành tựu mức độ của
việc du nhập này.
Một khu vườn khi đã xanh tươi có thể trở thành khô cằn qua tiến trình
tự nhiên. Marcus Olson thường lập luận qua thời gian tất cả mọi hệ
thống chính trị không chống nổi sự sơ cứng, phần lớn do những hoạt động
thủ lợi của các nhóm lợi ích. Có lẽ đó là điều mà chúng ta thấy đang xãy
diễn hiện nay tại Hoa Kỳ. Người Mỹ có thể khoe là hệ thống của họ là
chuẩn mực cho thế giới, Hoa Kỳ là tượng trưng cho uy lực pháp quyền.
Nhưng ngày nay chúng ta thấy thao túng của các luật sư, đó là chuyện
khác biệt. Chắc chắn một điều là không có sư trùng hợp ngẩu nhiên khi
khi đa số nghị sĩ và dân biểu là luật sư. Như tôi đã lập luận trong bài
thuyết trình này, thì hệ thống này phải cải cách như thế nào, khi đã
có quá nhiều mục nát trong hệ thống này, trong cơ quan lập pháp, trong
cơ quan điều tiết và chính ngay trong hệ thống luật pháp. Đó là vấn đề.
Câu trả lời mà tôi sẽ lập luận trong bài thuyết trình cuối cùng của
chương trình Reith là cải cách, dù trong thế giới Anh ngữ hay Trung Quốc
- phải đến từ một lĩnh vực ngoài phạm vi các thể chế công quyền. Nó
phải đến từ tổ chức thuộc về xã hội dân sự, nói vắn tắt, nó đến từ chúng
ta là những người dân.