Thụy Mi & Phạm Chí Dũng
Phương Uyên được chào đón khi vừa ra khỏi trại giam Long An |
Ngày 16/08/2013 vừa qua người ta đã chứng kiến việc Phương Uyên được trả
tự do một cách hết sức bất ngờ ngay tại tòa án. Sự kiện này có thể dẫn
đến vận hội mới mẻ nào cho xã hội Việt Nam?
RFI Việt ngữ đã đặt câu hỏi này với nhà báo tự do Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh.
RFI : Thân chào nhà báo Phạm Chí Dũng, rất hân
hạnh lại có dịp trao đổi với anh trên làn sóng của đài RFI. Thưa anh,
anh nhận xét như thế nào về bất ngờ đến khó tin của phiên phúc thẩm xử
Phương Uyên và Nguyên Kha vừa qua ?
Nhà báo Phạm Chí Dũng : Nếu tôi nhớ không lầm thì
từ năm 1975 đến nay mới diễn ra một sự kiện đặc biệt, quá sức đặc biệt
như vụ Phương Uyên, khi một phạm nhân chính trị được trả tự do ngay tại
tòa. Từ năm 1975 đến nay, có lẽ sự kiện Phương Uyên là một chứng nghiệm
rõ nhất cho quy luật khoa học biện chứng lịch sử: khi chính thể mạnh,
“nhập kho” tăng và “xuất kho” giảm; còn khi chính thể yếu, “nhập kho”
giảm còn “xuất kho” tăng.
Việc được trả tự do ngay tại tòa của Phương Uyên là một sự kiện mang
tính tín hiệu rõ nét nhất, phản ánh xu hướng “xuất kho” và chính thể
Việt Nam đang khởi động cho định hướng “xoay trục”. Nếu chính sách gần
gũi nhất của Hoa Kỳ là “xoay trục” về khu vực Đông Nam Á thì Nhà nước
Việt Nam chuyển động theo chiều ngược lại”: hướng sang phương Tây.
Hiện tượng này lại phản ánh một quy luật khác: độ mở dân chủ tỉ lệ thuận với độ mở đối ngoại.
Còn trong nhãn quan của cộng đồng quốc tế, đúng là có một chuyện gì đó
hình như đang xoay chuyển. Và nếu lạc quan hơn như giáo sư người Anh
Jonathan London - người chuyên nghiên cứu về Việt Nam và có thiện chí
đến mức bất ngờ với nhân dân đất nước này - thì “tình hình chính trị ở
Việt Nam hiện nay đang biến động rất nhanh”. Thậm chí ông còn phóng ra
một câu hỏi rất sốt ruột: “Bây giờ thì sao?”.
Tất nhiên nhiều người và nhiều giới trong nước và quốc tế đều muốn được
thỏa mãn những câu hỏi thiết thân như: Sự kiện tự do của Phương Uyên hàm
ý điều gì? Liệu có phản ánh một sự thay đổi lớn về chính sách của Nhà
nước Việt Nam đối với tù nhân lương tâm, chính sách dân chủ nương theo
quan điểm đối ngoại? Sau sự kiện này liệu có thể dẫn tới những những sự
kiện thả tù và cởi mở dân chủ nào khác? Hoặc, sự kiện Phương Uyên có
phản ánh một tấm lòng thành thực nào đó của một hoặc một số lãnh đạo
đảng và nhà nước đối với cộng đồng quốc tế và giới dân chủ trong nước?
Kinh tế việt Nam có hy vọng nào được phục hồi nếu giới đấu tranh dân chủ
trong nước không còn bị đưa vào các trại “phục hồi nhân phẩm”?...
RFI : Ngay sau khi Phương Uyên được trả tự do,
đã có nhiều dư luận về sự kiện chưa từng có này. Anh có bình luận gì về
những dư luận ấy?
Người Việt Nam không bao giờ bỏ phí tinh thần “lạc quan cách mạng”. Tôi
chỉ muốn nêu lại một vài câu chuyện hài hước trên các diễn đàn mạng,
trong các quán cà phê “dân chủ” và ở cả những bàn nhậu.
Một trong những câu chuyện trào phúng nhất thuộc về nhà báo Huỳnh Ngọc
Chênh. Chỉ mới cách đây chưa đầy hai tháng, người nhận giải thưởng “Công
dân mạng toàn cầu 2013” của Tổ chức Phóng viên Không biên giới còn
không giấu nổi tâm trạng lo ngại về triển vọng “nhập kho”, nhưng nay tại
mang tâm thế khác hẳn.
Tiếu lâm nhất là việc Huỳnh Ngọc Chênh đã nêu ra hai giả định sau chuyến
trở về không thể tưởng tượng được của nữ sinh áo trắng Phương Uyên,
trong đó có giả định 1 - lạc quan nhất - mà tôi xin lược lại như sau: “Các
người đứng đầu đảng Cộng sản Việt Nam thấy rằng đến lúc phải thực lòng
thay đổi để nhanh chóng hội nhập (…) nên đã quyết định tìm cách trả lại
tự do ngay cho Phương Uyên, và từ từ trả lại tự do cho Nguyên Kha. Việc
giảm án cho Uyên - Kha là bước đi "Amstrong" rụt rè đầu tiên hướng về
ánh sáng dân chủ nhưng sẽ là bước tiến vĩ đại của dân tộc trong nay mai.
Những bước đi tiếp theo là sẽ thả hết các tù nhân lương tâm còn lại
vào dịp đặc xá ngày 2/9 sắp đến, rồi tiến đến thay đổi Hiến pháp bỏ đi
điều 4, chấp nhận đa nguyên, đa đảng... Nếu đúng với giả định nầy, tôi
tin rằng toàn dân sẽ tôn 16 ông bà trong Bộ Chính trị thành những thánh
nhân, dựng tượng khắp mọi nơi để thờ cúng. Riêng tôi nguyện sẽ mỗi ngày
viết một bài báo hàng ngàn chữ để ca ngợi công đức của các vị cho đến
khi tôi không còn viết được nữa.
Tôi cũng tin rằng nhân dân sẽ khép lại quá khứ, tha thứ tất cả, đảng
Cộng sản Việt Nam tiếp tục được ủng hộ, nhân dân sẽ dồn phiếu cho các vị
trong bầu cử tự do để tranh đua sòng phẳng và thắng lợi tuyệt đối các
đảng phái mới lập khác… Tôi hay tin người và tin vào điều tốt đẹp nên
rất tin vào giả định 1”.
Tất nhiên một số độc giả “ngây thơ” đã “ném đá” Huỳnh Ngọc Chênh vì cái
được gọi là “lòng tin chiến lược” như thế. Chỉ có điều, số độc giả ít
tường tận về tính cách ông Chênh hình như đã chẳng mấy quan tâm đến giả
định thứ hai mà ông nêu ra: “Do áp lực phải vào TPP, phải vào Hội
đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, phải mua được vũ khí sát thương của Mỹ,
phải tìm các nguồn tài trợ cho nền kinh tế đứng bên bờ vực thẳm... các
vị lấy việc giảm mức án vài năm cho Uyên - Kha làm món hàng trao đổi để
lừa bịp dư luận và thế giới.
Sau khi đạt được các yêu cầu chiến thuật đó các vị lại “đâu trở về
đó”, lại tiếp tục vùi dập nhân quyền, đàn áp người yêu nước... như đã
từng làm sau khi vào WTO. Nếu giả định nầy là sự thật thì nhân dân sẽ
không để yên, lịch sử sẽ đời đời nguyền rủa, thế giới sẽ không ngu ngơ
để các vị tiếp tục dối trá”.
RFI : Anh có tin vào giả định nào của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh?
Hơi khác với Huỳnh Ngọc Chênh, tôi không tin người lắm, đặc biệt đối với
các chính khách thời nay. Do vậy tôi hoài nghi đối với mọi giả định,
cho dù đã xác định được tính xu thế về độ mở chính trị tỉ lệ thuận với
độ mở đối ngoại.
Tôi cũng muốn nêu ra một giả định khác, có thể mang tính trung dung giữa
hai giả định của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, nhưng được nhìn từ góc độ
biện chứng lịch sử.
Hãy trở lại với quy luật nhập kho – xuất kho, chúng ta có thể tự hỏi là
với sự kiện Phương Uyên diễn ra chưa có tiền lệ, thế mạnh của chính thể
đã diễn biến đến mức nào và đang ở điểm ngoặt nào? Phải chăng đã xảy ra
một sự thay đổi đủ lớn từ đối nội và đối ngoại, hoặc hơn nữa là tính
cộng hưởng giữa hai yếu tố này mà khiến chính quyền buộc phải thả người?
Cần nhắc lại là vào đầu năm 2013, sau chuyến đi của người đứng đầu Đảng
Nguyễn Phú Trọng đến Roma, đã xảy ra một sự kiện chưa có tiền lệ ở Việt
Nam. Một nhóm nhân sĩ, trí thức gồm 72 người đã ký tên vào một bản văn
bản được gọi tượng trưng là “Kiến nghị 72” với nhiều đề nghị liên quan
đến Hiến pháp, Luật biểu tình, Luật lập hội, Luật trưng cầu dân ý và cả
đề nghị thay đổi điều 4 Hiến pháp về cơ chế độc đảng. Nhưng sau đó, rất
nhiều người dân và công chức đã ngạc nhiên về chuyện đã không một ai
trong nhóm “Kiến nghị 72” bị “kiểm soát đặc biệt”, trong khi nếu sự kiện
này xảy ra vào những năm trước đó thì không biết hậu quả nào đã xảy
đến, thậm chí còn có thể có chuyện bắt bớ.
“Kiến nghị 72 “ ra đời cùng với chuyến đi của Tổ chức Ân xá Quốc tế đến
Việt Nam - cũng là lần đầu tiên tổ chức này được Nhà nước Việt Nam cấp
“quota” cho gặp trực tiếp những nhân vật bất đồng chính kiến theo yêu
cầu. Cũng vào thời gian này, giới quan sát còn ghi nhận một vài chuyến
đi và những cuộc gặp gỡ của các quan chức Cộng đồng châu Âu, những nghị
sĩ đấu tranh cho vấn đề dân chủ và nhân quyền và đã có những tiếp xúc
với các quan chức Bộ Ngoại giao, Bộ Công an ở Hà Nội. Mà đó là những
cuộc gặp được công khai cho báo chí, trong khi dư luận còn cho rằng có
những cuộc tiếp xúc kín đáo hơn nhiều, đã dẫn đến cuộc đối thoại nhân
quyền Việt – Mỹ ở Hà Nội vào trung tuần tháng 4/2013.
Vậy thì câu chuyện của Phương Uyên cũng rất có thể là một logic tiếp
theo của chuỗi vận động đối ngoại – đối nội diễn ra từ đầu năm 2013 đến
nay, chứ không phải là đột biến hay ngoại lệ, cho dù sự kiện này đã làm
kinh ngạc rất nhiều người.
RFI : Nhưng đợt bắt bớ các blogger ở Việt
Nam xảy ra vào tháng 5 và tháng 6 năm 2013 có đi ngược lại tính logic
của lộ trình mở cửa chính trị như anh phân tích?
Chúng ta hãy nhìn vào cái gọi là “Danh sách 20”, tức một tin tức được
tung ra cùng với đợt bắt ba blogger Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và
Đinh Nhật Uy. Có thể nhận ra điều đó giống như một động tác giả hơn,
xuất phát từ một cơ quan đặc biệt nào đấy nhằm tác động đến tâm lý và
hành vi của giới blogger và hoạt động dân chủ nhân quyền, chứ thực ra từ
đó đến nay đã không diễn ra một sự bắt bớ nào nữa.
Mà vụ việc của hai trong ba blogger lại được đánh giá thiên về màu sắc
nội bộ và với mục đích tìm ra nguồn tin hơn là một “cú đánh” trực tiếp
vào hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Còn với Đinh Nhật Uy,
tin tức gần nhất cho thấy blogger này có khả năng sắp được trả tự do.
Thực ra, vấn đề của Uy là quá nhỏ bé trong tổng thể bàn cờ chính trị ở
Việt Nam.
Nhân đây, cũng cần làm rõ một đánh giá cho rằng vào nửa đầu năm 2013, số
người bất đồng chính kiến bị bắt giữ ở Việt Nam bằng cả hai năm trước
cộng lại. Nếu nhìn lại và rạch ròi về thời điểm bắt giữ thì có thể thấy
những vụ bắt người tập thể như 14 thanh niên Công giáo, Tin lành và vụ
Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn đều xảy ra vào năm 2012 chứ không
phải 2013. Người ta cũng còn nhớ vụ bắt giữ luật sư công giáo Lê Quốc
Quân vào cuối năm 2012 là vụ cuối cùng của năm đó. Còn đến năm 2013,
những vụ “tồn kho” của năm trước được đưa ra xét xử và có án. Như vậy,
thực ra số người bất đồng chính kiến bị bắt vào nửa đầu năm 2013 là giảm
hẳn so với nửa cuối năm trước, phản ánh biểu đồ kiểm soát chính trị
đang võng dần xuống theo một đường thoai thoải, hoặc làm thành “một
đường mỏng manh” (a delicate line) – như cụm từ mà đại sứ Hoa Kỳ tại
Việt Nam David Shear đã dùng để chỉ về mối quan hệ “đi dây” của Hà Nội
giữa Bắc Kinh và Washington.
Mà như thế, đáng lý ra dư luận trong nước và cả các tổ chức nhân quyền
quốc tế đã không phải quá ngạc nhiên khi chứng kiến Phương Uyên được thả
đột ngột. Nhất là sự kiện trả tự do chưa có tiền lệ này lại diễn ra chỉ
gần ba tuần sau cuộc gặp giữa hai nguyên thủ quốc gia của Mỹ và Việt
Nam.
Vấn đề chỉ còn là thời gian, thả sớm hay muộn hơn mà thôi.
RFI : Cho tới nay vẫn có nhiều luồng ý
kiến khác biệt về nguyên nhân và động lực dẫn tới sự tự do của Phương
Uyên. Anh đánh giá ra sao về vấn đề này?
Tôi nhìn thấy một ảnh hưởng không nhỏ, hoàn toàn không mờ nhạt từ phía
Nhà Trắng. Có thể coi thái độ của Washington mới là ảnh hưởng có tính
quyết định.
Ngay sau khi Phương Uyên được thả, khẩu khí của đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là David Shear có vẻ càng cứng rắn hơn: “Chúng tôi đã khẳng định rất mạnh mẽ rằng chúng tôi muốn các tù nhân chính trị phải được thả”.
Cũng sau khi Phương Uyên được thả, một viên chức chính trị của Đại sứ
quán Hoa Kỳ là Michael Orona đã trả lời báo chí rằng đây là sự đấu tranh
không ngừng nghỉ từ nhiều phía. Ông Orona cho biết ngay từ đầu tiên,
Tòa đại sứ đã ra thông cáo báo chí về việc này và tiếp tục lên tiếng
bằng nhiều kênh đối thoại.
Cách bày tỏ thái độ của các quan chức ngoại giao Hoa Kỳ cũng không kém
logic với cách tiếp đón Chủ tịch Sang của Tổng thống Obama. Kín đáo
trong hội đàm, nhưng bên ngoài vẫn liên tục diễn ra nhiều cuộc vận động
của các nghị sĩ Mỹ và châu Âu cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Làn
sóng vận động này lại bắt nguồn từ giới hoạt động dân chủ và nhân quyền
trong nước.
Nhưng cũng không thể nói rằng cuộc biểu tình ngày 16/8/2013 ở Long An
của hàng trăm người ủng hộ Phương Uyên là vô nghĩa. Cũng không thể nói
là công an Long An không thuần thục phương án phòng chống biểu tình, bạo
loạn mà đã để cuộc biểu tình diễn ra một cách đầy đặn đến khó tả, đến
mức mà nhà văn Nguyễn Tường Thụy còn mô tả “vừa đi vừa binh vận lẫn dân
vận”. Còn trước đó một ngày, hàng chục người bị xem là “đối tượng chính
trị” đã có thể cùng với gia đình Phương Uyên và Nguyên Kha gặp gỡ các
phạm nhân mà không bị cán bộ trại giam Long An làm khó dễ gì…
Những tín hiệu cứ tiếp nối sinh ra, sinh sôi một cách thầm lặng, nhưng
trên hết vẫn là tính tín hiệu. Mà đó chỉ là đà tiếp nối cho một sự cộng
hưởng trong – ngoài để dẫn đến một tác động can thiệp nào đó từ phương
Tây đối với trường hợp Nữ sinh áo trắng.
RFI : Như vậy là chính phủ Hoa Kỳ vẫn
quan tâm đến chủ đề dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, khác với dư luận
cho rằng Tổng thống Obama đã quay lưng?
David Shear là một trong những dấu chỉ lộ thiên cho câu hỏi này. Trong
cùng thời gian Phương Uyên được thả, David Shear đã có một cuộc tiếp xúc
với cộng đồng người Việt ở Little Sài Gòn, và một ít thông tin xuất
hiện từ đấy đã cho thấy ông Shear xác nhận: chính Tổng thống Obama đã
nói thẳng với ông Trương Tấn Sang trong chuyến viếng thăm vào ngày
25/7/2013, là hiện nay Việt Nam đang cần Hoa Kỳ nhiều hơn trong các vụ
mua bán về vũ khí sát thương, và hồ sơ nhân quyền sẽ trở thành điều kiện
ràng buộc trong việc mua bán vũ khí, phát triển quan hệ đối tác.
Dấu chỉ đã khá rõ: sau gần ba tuần diễn ra cuộc gặp Obama – Sang, công
luận được biết đến những điều “thầm kín” trong phòng Bầu dục. Nếu người
Việt ẩn dụ bằng bản sao bức thư của ông Hồ Chí Minh viết cho Tổng thống
Mỹ Harry Truman gần bảy chục năm về trước, thì người Mỹ hiện tại lại
không cần giấu diếm quan điểm của mình. Và đúng như David Shaer đã ẩn dụ
trước cuộc gặp Obama- Sang, “Mỹ có ưu thế để đặt ra vấn đề này(dân chủ
và nhân quyền)”.
Vậy ưu thế đó là cái gì?
Ít lâu sau cuộc gặp Obama- Sang, vị đại sứ từng trải, ít nói và được xem
là có nhiều kinh nghiệm đối thoại với Hà Nội đã có một cuộc họp báo với
cái nhìn tương đối lạc quan về triển vọng quan hệ “đối tác toàn diện”
giữa hai quốc gia, khác khá nhiều với thái độ lắng tiếng của chính ông
vào năm trước, nhất là lúc cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ bị đình
hoãn đột ngột vào cuối năm 2012.
Tuy thế, thái độ của vị quan chức cao cấp nhất đón phái đoàn lên đến 200
người của Chủ tịch Sang ở sân bay Washington vẫn không quá lạc quan.
Trong cuộc gặp với người Việt ở Little Sài Gòn mới đây, ông David Shear
tái khẳng định tình hình nhân quyền Việt Nam vẫn không có sự cải thiện
nào đáng kể như sự mong đợi của Hoa Kỳ. “Thời gian” là một trong những
khái niệm mà David Shear đề cập nhiều nhất, liên quan đến TPP và vũ khí
sát thương là hai thứ mà Hà Nội đang muốn có.
Tất cả đều phải có thời gian. Cách nói của David Shear cũng có thể khiến
người ta nhớ lại lời nhắc của Bộ trưởng Thương mại Mỹ với ông Sang vào
cuối tháng 7/2013, cho rằng Việt Nam đã đạt được một số yêu cầu về thủ
tục TPP, nhưng sẽ còn phải mất nhiều thời gian nữa để hoàn thiện việc
gia nhập hiệp định này.
Cũng cần nhắc lại, vào tháng 2/2013, một đại sứ châu Âu đã tiếp xúc với
Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn và nhận được câu trả lời “Chúng
tôi hiểu, nhưng hãy cho chúng tôi thời gian”.
RFI : Liệu có thể hy vọng thời gian sẽ
làm cho Hà Nội nghĩ đến việc phóng thích các tù nhân lương tâm, trong đó
đặc biệt là trường hợp Điếu Cày vừa gây nên cuộc tuyệt thực chấn động?
Đó cũng là ẩn số mà nhiều người đang chờ đợi được giải mã.
Mới đây, một thông tin được công bố chính thức trên báo đài nhà nước cho
biết sẽ có trên 15.000 phạm nhân đủ điều kiện được đặc xá trong dịp lễ
2/9 ở Việt Nam. Trong khi vào năm ngoái, giới tù nhân đã phát hoảng vì
tin tức không chính thức cho rằng trong hai năm 2013-2014 và thậm chí có
thể đến cả năm 2015 sẽ không có chuyện đặc xá.
Tin tức lại dẫn đến đồn đoán. Hiện thời, người ta đang hỏi nhau liệu có
diễn ra một đợt thả tù nhân lương tâm cùng trong đợt đặc xá hay không,
và những ai là đối tượng được “ưu ái”. Thậm chí một dự đoán lạc quan lan
truyền trong giới blogger cho là nhà cầm quyền có thể phóng thích hàng
chục tù nhân chính trị vào dịp lễ quốc khánh 2/9.
Với tình cảm gần gũi, giới blogger đang nhắc lại những nhân vật đang bị
“cầm cố” có triển vọng “xuất kho” như Anh Ba Sài Gòn, Phạm Viết Đào,
Đinh Nhật Uy…
Nhưng trên hết vẫn là một người có biệt danh là Điếu Cày. Sau sự kiện
Phương Uyên được trả tự do, Đại sứ David Shear đã cho biết đây là nhân
vật nằm đầu bảng trong sự đòi hỏi của Hoa Kỳ, và hiện nay Tòa đại sứ
đang theo dõi sát tình hình sức khỏe cũng như điều kiện giam cầm của
nhân vật này.
Cần nhắc lại, tù lương tâm Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đáng lý đã có thể
được phóng thích từ vài năm trước, nếu không bị kết án lại với một mức
án quá trầm trọng. Cuộc tuyệt thực đến hơn một tháng và ngoài sức tưởng
tượng của Điếu Cày đã còn hiện thực và lay động hơn cả chuỗi nhịn ăn của
Cù Huy Hà Vũ, khiến cho Nguyễn Văn Hải trở nên hoàn toàn tương xứng với
lời tri ân của Tổng thống Obama vào tháng 5/2012 nhân ngày Tự do Báo
chí Quốc tế.
Có thể hy vọng cho việc phóng thích. Cũng đã có một vài tín hiệu nào đó
đối với Điếu Cày. Những người thạo tin trong giới blogger còn hy vọng sẽ
được đón chào người tù nhân có án hàng chục năm này trong không bao lâu
nữa.
Khách quan nhìn nhận, việc thả người là một quy luật đặc thù trong bối
cảnh hiện nay, tương xứng với những vận động đối ngoại và cả sức ép từ
trong nước. Sức ép trong nước lại còn đến từ chính những người đã có bề
dày tham gia chế độ.
Không phải vô cớ mà trước cuộc biểu tình đòi trả tự do cho Phương Uyên ở
Long An, một trong những thủ lãnh máu lửa nhất của Lực lượng thứ ba –
Phong trào học sinh, sinh viên ở Sài Gòn trước năm 1975, người đã từng
lãnh án tử hình và hiện thời đang phải đối mặt với bạo bệnh – luật gia
Lê Hiếu Đằng, đã phát động một phong trào có tên “Đảng Dân chủ Xã hội”.
Chỉ để đối phó với một Lê Hiếu Đằng, Nhà nước đã phải dùng đến ít nhất 6
tờ báo và vài chục bài công kích, chỉ trích. Điều đó cho thấy những
lãnh đạo cao nhất ở Việt Nam có thể không còn đánh giá thấp truyền thông
xã hội và những nhân tố có tính đột biến trong lòng “lề trái”, nhất là
khi giới “lề trái” đang nhận được sự hậu thuẫn ngày càng trực tiếp và
song ánh của giới truyền thôing và dân chủ nhân quyền quốc tế.
Và nếu quy luật khoa học “nhập kho, xuất kho” ứng nghiệm vào hoàn cảnh
này, sắp tới sẽ diễn ra cảnh đoàn tụ giữa những tù nhân lương tâm với
gia đình của họ ở ngay trong sân các trại giam. Nếu không khí trùng
phùng đó diễn ra, người dân có quyền hy vọng là Nhà nước sẽ nương tay
không nỡ “nhập kho” thêm trong ít ra vài năm tới.
Cũng cần đối chiếu đôi chút với trường hợp Miến Điện. Tại quốc gia này
vào thời gian trước năm 2011, chẳng có mấy ai dám hy vọng vào một tương
lai sáng sủa đối với số tù nhân chính trị còn nhiều hơn ở Việt Nam hiện
thời. Tuy nhiên, sự quyết đoán của Tổng thống Thein Sein trong việc nắm
triều chính và những bước đi quả quyết hướng về phương Tây đã không chỉ
khiến bà Aung San Suu Kyi được giải chế, mà trong năm 2012 và đặc biệt
trong nửa đầu năm 2013 đã có hàng trăm tù nhân chính trị được trả tự do,
trong đó bao gồm cả những tù nhân chính trị có mức án lên đến hàng trăm
năm. Cho tới giờ, con số thống kê chính thức cho thấy trong các nhà tù
Miến Điện chỉ còn khoảng 70 tù nhân chưa được trả tự do.
Bởi thế ứng với Việt Nam, ngay cả những trường hợp đã chịu án nặng như
Điếu Cày vẫn có cơ may thoát vòng lao lý, nếu độ mở dân chủ song trùng
với điều kiện thả tù chính trị.
Trong dịp lễ 2/9 này, mặc dù công bố của các trại giam là chưa có đặc xá
cho những trường hợp như Điếu Cày, nhưng tôi vẫn nghĩ là có thể có
những hy vọng, nếu không phải là vào dịp lễ 2/9 này thì sau đó, và có lẽ
không lâu nữa. Vì Điếu Cày có thể nhận một mức đặc xá giảm án nhiều,
hoặc thậm chí có thể được trả tự do.
RFI : Anh có lạc quan quá không, khi trong số 15.000 người được đặc xá lần này không có những tù nhân chính trị nổi tiếng ?
Tôi không quá lạc quan, nhưng không hẳn là bi quan. Tại vì rõ ràng là sự
kiện Phương Uyên đã mở ra một điểm sáng cho khung trời dân chủ và nhân
quyền ở Việt Nam. Mà điều đó cho phép người ta có thể hy vọng là có
những chuyện sẽ mở ra hơn. Ở Việt Nam không phải luôn luôn và lúc nào
cũng có chuyện thả tù nhân chính trị một cách ồ ạt như Miến Điện, tại vì
Việt Nam không phải là Miến Điện. Mà ở đây người ta thả lặng lẽ.
Mà tôi cũng nhớ là trường hợp của tôi cũng thả rất là lặng lẽ, trong một
bầu không khí hoàn toàn yên lặng, không ai biết gì hết. Và khi tôi ra
khỏi trại giam thì tôi leo lên xe ôm đi thẳng về nhà, không có một ai
đón tôi cả. Điều đó khác xa với trường hợp của Phương Uyên.
Cái cung cách như vậy làm cho tôi cũng hy vọng là mặc dù trong danh sách
15.000 người chưa công bố một số nhân vật được coi là tù nhân lương tâm
đặc biệt – những người khá nổi tiếng, những blogger, nhà đấu tranh dân
chủ nhân quyền trong đó có Điếu Cày, nhưng vẫn có thể có hy vọng là
trong một sắc thái lặng lẽ kín đáo nào đó, thì dần dần, từng người một
sẽ ra khỏi trại giam trong những ngày sắp tới. Không nhất thiết là phải
đúng ngay dịp lễ 2/9 này mà có thể sau 2/9
RFI : Tuy thế, vẫn không ngớt dư luận lo
ngại về thái độ đối xử thiếu hòa nhã của công an Việt Nam đối với giới
hoạt động dân chủ hay nghị định 72 về cấm đoán Internet…
Trong những ngày gần đây, dư luận cho rằng một số thành viên dân chủ
theo phương châm hành động từ nhà ra đường phố đã bị sách nhiễu, và còn
có cả dấu hiệu công an sử dụng côn đồ để gây hấn và xúc phạm những người
này. Nhưng xét trong xu thế khách quan và độ mở chính trị đang dần hình
thành ở Việt Nam, tôi cho rằng những hành động bị coi là sách nhiễu,
gây khó của ngành công an chỉ nằm trong chiến thuật phân hóa, kiểm soát,
khống chế nhưng rất hạn chế mục tiêu bắt bớ. Nhìn chung, những hành
động như thế chỉ mang tính gián tiếp về tác động tâm lý hơn là mục tiêu
cô lập trực tiếp về hành vi.
Mặt khác từ thực tế khách quan, sự lo lắng của giới blogger ở Việt Nam
đối với nghị định 72 về “quản chế” Internet của nhà nước sẽ phát huy tác
dụng sau tháng 9/2013 có thể không có nhiều cơ sở. Một tiêu chí đo
lường tương đối chính xác cho hiệu ứng này là mật độ và hàm lượng thông
tin của truyền thông nhà nước, mà cụ thể là trên mặt báo đảng. Nếu so
sánh tần suất đưa tin và bình luận về vụ phúc thẩm Uyên – Kha với nghị
định 72, người ta có thể nhận ra mức độ thông tin gần như tương đương,
nghĩa là không ồ ạt, thậm chí khá lắng tiếng so với thời điểm cuối năm
2012 và ngay trước phiên sơ thẩm Uyên – Kha cách đây mấy tháng.
Sự lắng tiếng rõ nét của báo đảng nói lên điều gì? Người ta đang đặt dấu
hỏi về một thái độ không đồng nhất, thậm chí có thể là trái chiều giữa
các cơ quan tố tụng hoặc thậm chí ở cấp cao hơn, dẫn đến tình trạng lúng
túng và bất động của một số cơ quan tuyên truyền đặc biệt và có thể cả
với cơ quan an ninh ở một số địa phương. Tình trạng có vẻ như bất động
như thế lại đang chịu sự chỉ trích không nhỏ về nghị định 72 của giới
hoạt động dân chủ nhân quyền quốc tế như Tổ chức phóng viên không biên
giới hay Liên minh trực tuyến…
Sự bất động ấy cũng dường như đang chìm trong chờ đợi về một tương lai không đoán định được.
RFI : Tương lai khó đoán định ấy sẽ diễn ra nhanh hay chậm?
Không phải tất cả mọi chuyện đều diễn ra suôn sẻ và nhanh chóng. Điều mà
giáo sư người Anh Jonathan London kỳ vọng là tình hình chính trị ở Việt
Nam đang chuyển biến khá nhanh, thực ra lại có thể làm vị trí thức
nhiệt thành này bị thất vọng đôi chút.
Non sông dễ chuyển, bản tính khó dời… Đơn giản là nếu nền chính trị Việt
Nam không nằm trong một bối cảnh đầy chông gai về suy thoái kinh tế và
phân hóa tư tưởng như hiện thời, sẽ khó có một độ mở dân chủ nào được
thực hiện đúng nghĩa, theo lộ trình như đã được Hà Nội cam kết với Mỹ và
phương Tây từ khi gia nhập Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 12 năm về
trước.
Bầu không khí xã hội – chính trị ở Việt Nam như đang trở lại thời điểm
năm 2004, khi chủ đề CPC về các quốc gia cần đặc biệt được quan tâm về
nhân quyền và tôn giáo được áp dụng với Việt Nam. Truớc đây trong hai
năm liên tiếp từ năm 2004 đến năm 2006, sau khi bị xếp vào CPC, tình
hình tự do tôn giáo tại Việt Nam lại có những cải thiện mà trước đó quá
đỗi hiếm hoi, như trả tự do cho một số tù nhân, mở rộng phạm vi bảo vệ
của pháp luật đối với một số các cộng đồng tôn giáo được nhà nước thừa
nhận… Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế cũng ghi nhận phần lớn các lãnh đạo
tôn giáo ở Việt Nam cho rằng những thay đổi tích cực này đến từ sức ép
của CPC với Việt Nam.
Tuy thế, có lẽ bài học mà người Mỹ không thể quên là từ năm 2006 khi
nước Mỹ nhấc Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, cho đến nay tình trạng nhân
quyền và tôn giáo ở Việt Nam lại không có dấu hiệu khả quan hơn, nếu
không muốn nói là bị cộng đồng quốc tế đánh giá “thụt lùi sâu sắc”.
RFI : Tuy không bị xếp vào danh sách CPC
trong năm 2013, nhưng Nhà nước Việt Nam lại phải chịu sức ép không hề
nhỏ của hai dự luật nhân quyền và chế tài nhân quyền dành cho quốc gia
này. Theo anh dự đoán, tình hình hoạt động dân chủ nhân quyền và xã hội
dân sự sẽ như thế nào ở Việt Nam trong thời gian tới?
Quy luật “giảm nhập kho, tăng xuất kho” sẽ ứng nghiệm cho đến khi nào mà
quan hệ giữa hai nhà nước Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn tạm nồng ấm, với
nhu cầu thuộc về Việt Nam nhiều hơn, liên quan chủ yếu đến một lợi thế
so sánh mà có lẽ các quan chức lãnh đạo cao cấp của Việt Nam cho là “cân
bằng chiến lược Đông – Tây”, TPP và kể cả gia cố uy tín cho hình ảnh
của giới lãnh đạo trong con mắt dân chúng và cộng đồng quốc tế. Trước
mắt, lộ trình làm thủ tục gia nhập TPP có thể kéo dài từ một đến hai
năm, nghĩa là có thể kéo đến cuối năm 2014 hoặc sang cả năm 2015.
Và nếu không có gì thay đổi, trục Mỹ -Trung -Việt sẽ là một thế cân bằng
chiến lược, nằm trong chính sách “xoay trục” của Washington về Đông Nam
Á trong nhiều năm tới và quan hệ thương mại không thể thiếu giữa Bắc
Kinh và Washington. Đó cũng là lý do để Hà Nội có thể tự thân “xoay
trục”, nhưng không quá thiên về Bắc Kinh như trước đây, mà về hướng kẻ
cựu thù.
Hầu như rõ ràng, chuyến đi của một quan chức cao cấp Việt Nam là Phó thủ
tướng thường trực Nguyễn Xuân Phúc đến Washington để “làm việc với đại
học Havard”, hoặc cuộc gặp giữa hai bộ trưởng quốc phòng Việt Nam và Mỹ,
rất có thể đóng vai trò “tiền trạm” cho một chuyến đi khác đến New York
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, dự kiến vào cuối tháng 9/2013. Tất
nhiên, những chuyến đi như vậy đang nằm trong chuỗi logic với sự kiện
Phương Uyên và có thể cả những nhân vật hậu Phương Uyên.
Từ năm 1975 đến nay, có lẽ từ thời điểm giữa 2013 mới bắt đầu chứng
nghiệm một “lòng thành chính trị” nào đó của Hà Nội. Và cứ chiếu theo
quy luật khách quan, giới hoạt động dân chủ nhân quyền ở Việt Nam có
nhiều khả năng sẽ không bị “nhập kho”, trừ trường hợp một ít vụ việc bị
chính quyền xem là “rất quá khích”.
Cũng theo quy luật khách quan, có thể đến cuối năm 2013, một số nhóm dân
chủ bạo dạn nhất sẽ có thể tiến đến công khai hóa hoạt động của họ,
hình thành những hội đoàn và có thể nâng lên tầm phong trào, làm đà cho
sự hình thành và phát triển một mảng nào đó của xã hội dân sự ở Việt Nam
trong năm 2014.
Còn về chân đứng của xã hội dân sự ở Việt Nam, một số người hoạt động
dân chủ đã đề nghị lấy ngày 16/8 là ngày khai sinh và kỷ niệm về sự hình
thành đầu tiên của xã hội dân sự ở Việt Nam. Đó cũng là ngày mà Phương
Uyên được trả tự do, ngày được xem là sự kết tinh của nhiều cố gắng đối
nội và đối ngoại trong suốt một thời gian dài.
Bước ngoặt của vận động chính trị - xã hội ở Việt Nam gần như chắc chắn
đang khởi động. Nếu người Mỹ xoay trục về Đông Nam Á và Việt Nam được
xem là quốc gia “gần sát trung tâm” của chính sách đó, còn Nhà nước Việt
Nam cũng đang hướng đến “xoay trục” sang phương Tây, thì rất có thể
giới hoạt động dân chủ còn mỏng manh và phân tán ở đất nước này đang chú
tâm đến một hình ảnh “xoay trục” về xã hội dân sự tương lai, đấu tranh
ôn hòa và bất bạo động, thay cho những manh động đốt cháy giai đoạn mà
dễ bị dập vùi.
Nếu mọi chuyện diễn ra một cách ôn hòa và có tính kết nối cao, thì như người đời thường luận, phía trước là bầu trời.
RFI : Xin chân thành cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng ở Thành phố Hồ Chí Minh đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ.