Phạm Văn Tuấn
1. Xóa bỏ thể chế cũ
Qua đầu thế kỷ 19, người Anh đã thay thế người Bồ Đào Nha và người
Hòa Lan làm chủ về thương mại tại các vùng biển châu Á và những nguồn
lợi buôn bán của người Anh cũng bắt đầu phát triển rầm rộ tại Trung Hoa.
Trong khi đó Hoa Kỳ lại chú ý hơn tới Nhật Bản.
Sau khi Đô Đốc Perry đã bắt Nhật Bản phải mở cửa, hai hải cảng của
Nhật được dành cho Hoa Kỳ là Shimoda ở cuối bán đảo gần Edo, nơi có tòa
lãnh sự Hoa Kỳ, và Hakodate, trên đảo phía bắc Hokkaido.
Năm 1858, Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ đầu tiên là Towsend Harris đã ép Nhật
Bản ký một thỏa ước thương mại toàn phần, có hiệu lực từ năm 1860. Nhật
Bản cũng phải ký các thỏa ước bất công với người Anh, người Hòa Lan,
người Pháp, người Nga và hải cảng Nagasaki phải mở cửa cho tầu thuyền
Nga cập bến. Sau đó vào năm 1866 còn có thỏa ước về thuế 5 phần trăm
đánh trên hàng hóa nhập cảng vào Nhật Bản. Các thương gia nước ngoài rất
chú ý tới hai thành phố mới phát triển là Yokohama, rất gần kinh đô
Edo, và Kobe ở phía bờ kia vịnh, đối với Osaka. Binh lính Anh và Pháp
cũng đi theo các thương nhân để bảo vệ các cơ sở thương mại và nhân viên
khỏi sự đe dọa của các hiệp sĩ Samurai.
Hiệp sĩ Samurai
Chính sách bế quan tỏa cảng sụp đổ, làm cho nước Nhật rơi vào tình
trạng hỗn loạn. Sự chênh lệch giá vàng tại Nhật Bản so với nước ngoài đã
làm cho vàng của Nhật Bản ra đi khỏi nước. Kỹ nghệ dệt cổ truyền cũng
bị hàng dệt làm bằng máy móc từ bên ngoài cạnh tranh và phải ngưng trệ.
Chính phủ Edo không còn khả năng bảo vệ Nhật Bản, đành phải ký kết nhiều
thỏa ước và cúi đầu trước các người Tây Phương. Nước Nhật đang rơi vào
con đường bán thuộc địa như Trung Hoa.
Lòng bất mãn và tình trạng xáo trộn tràn lan khắp nước Nhật. Các hiệp
sĩ Samurai bất tuân lệnh, tự nhận là “Samurai không chủ”, đã tấn công
các người Tây phương, giết chết viên thư ký của Lãnh Sự Hoa Kỳ Harris
vào năm 1859 và đốt tòa nhà Lãnh Sự Anh tại Edo vào năm 1863. Ii
Naosuke, lãnh chúa chủ trương hòa hoãn với Tây Phương, đã bị các hiệp sĩ
Samurai thuộc miền Mito phục kích và giết chết bên ngoài cổng lâu đài
tại Edo năm 1860. Quyền cai trị của Edo bị phân hóa.
Bên ngoài, hạm đội Anh bắn phá thủ phủ Kagoshima của miền Satsuma vào
năm 1863 để trả thù cho việc một người Anh bị ám sát gần Yokohama năm
trước. Vào năm 1864, hạm đội quân các nước đã phá hủy các pháo đài của
miền Choshu gần Shimonoseki khi các nơi này đã bắn vào các tầu thuyền
nước ngoài.
Với nền tài chính quốc gia bị tê liệt, dân chúng Nhật Bản ngơ ngác
theo dõi tình hình chính trị trong nước một cách thụ động trong khi đó,
một số võ sĩ trẻ Samurai thuộc miền Tây Nhật Bản đã hợp tác với một nhóm
quý tộc chưa từng có kinh nghiệm về chính trị, tìm cách kiểm soát chính
quyền trung ương, lật đổ chế độ Tướng Quân. Tháng 4 năm 1868, một hội
đồng hoàng gia được thành lập, đã ra một tuyên ngôn gọi là “Hiến Chương
Tuyên Thệ” (Charter Oath) hay “Năm Điều Tuyên Thệ” (Five Articles Oath).
Các nhà lãnh đạo mới đã nhờ Thiên Hoàng công bố Tuyên Ngôn vào ngày 8
tháng 4 năm 1868 theo đó (1) Tất cả các hủ tục của quá khứ cần phải loại
bỏ, (2) nhiều cơ hội được mở ra cho mọi người một cách công bằng, và
(3) sự hiểu biết phải được tìm kiếm ở khắp nơi trên Thế Giới.
Hiệp sĩ Samurai
Dưới danh nghĩa đoàn kết chung quanh Thiên Hoàng, những nhà lãnh đạo
mới đã không làm sống lại cơ chế cổ xưa hay các chức tước đã có từ
trước, mà cố gắng học hỏi ở các nước phương Tây tiến bộ hơn. Họ đã hủy
bỏ kiến trúc phong kiến của xã hội Tokugawa mà theo học các định chế Tây
Phương, với loại chính quyền tập trung. Châm ngôn của họ là “Phú Quốc,
Cường Binh”, hay một quốc gia giàu có và một quân đội hùng mạnh.
Sau cuộc lật đổ chế độ Tướng quân, các chức vị cao nhất được giao cho
những nhà quý tộc danh tiếng và các lãnh chúa đã cộng tác vào cuộc lật
đổ chế độ cũ, nhưng thật ra, những vị này chỉ đứng tượng trưng còn những
người lãnh đạo thực sự của nước Nhật vào giai đoạn này là các hiệp sĩ
Samurai và các nhà quý tộc trẻ trung. Cầm đầu nhóm là nhà quý tộc
Iwakura Tomomi, 43 tuổi, là người cao niên nhất, hoạt động cho đến khi
qua đời vào năm 1883. Sau đó là các hiệp sĩ Samurai xuất sắc như Kido
Takayoshi của miền Choshu, Okubo Toshimichi và Saigo Takamori của miền
Satsuma. Những nhân vật này nắm giữ các chức vụ như thứ trưởng, ủy viên
(councilors). Theo truyền thống cổ của Nhật Bản, việc lãnh đạo được chỉ
huy tập thể, các quyết định quan trọng được bàn thảo và cùng đồng ý.
Không một ai trong nhóm tìm cách nắm quyền một cách độc tài, giống như
sau các cuộc cách mạng xẩy ra tại các quốc gia khác.
Các nhà lãnh đạo mới đã thuyết phục được các lãnh chúa của các miền
Choshu, Satsuma, Tosa và Hizen, tức là những người có công đầu, hoàn trả
lại địa phận của họ cho Thiên Hoàng vào ngày 5 tháng 3 năm 1869. Các
lãnh chúa khác cũng tự nguyện hoặc bị bắt buộc làm theo, để rồi vào ngày
29 tháng 8 năm 1871, chính quyền mới tuyên bố hủy bỏ hoàn toàn các lãnh
địa, tất cả đất đai tập trung vào một chính quyền trung ương, chỉ định
các thống đốc và bồi thường cho các lãnh chúa bằng các công phiếu chỉ có
giá trị nếu chính quyền mới tồn tại. Các lãnh chúa cũ đành phải chấp
nhận, dùng công phiếu như một nguồn vốn ngân hàng và họ biến dần thành
một số nhà kinh doanh giàu có. Giai cấp lãnh chúa bị xóa bỏ, cũng kéo
theo giai cấp võ tướng là các hiệp sĩ Samurai. Năm 1876, các Samurai bị
từ chối đặc quyền đeo kiếm, tức là biểu hiệu của một giai cấp ân sủng.
Thành phố Edo từ lâu đã là cung thành của giòng họ Tokugawa, là thủ
đô chính trị thực sự của Nhật Bản trong nhiều thập kỷ, nay cũng là bản
doanh của chính quyền mới. Mùa thu năm 1868, Edo được đổi tên thành
Tokyo hay “Đông Kinh” tức là thủ đô phía đông, và Thiên Hoàng cùng triều
đình rời về Tokyo vào mùa xuân năm 1869. Vào lúc này, các nhà cầm quyền
mới chỉ có trong tay một chính sách là biểu tượng đoàn kết chính trị
chung quanh Thiên Hoàng và xây dựng đất nước bằng danh nghĩa này, mặc dù
vào lúc đó, Thiên Hoàng mới chỉ là một hoàng tử 14 tuổi. Năm 1868, niên
hiệu của Thiên Hoàng được gọi là “Minh Trị” (Meiji) và nhà Vua này đã
ngự trị Nhật Bản cho đến khi qua đời vào năm 1912.
2. Cải tiến theo Tây Phương
Trong vòng 10 năm, chính quyền
mới của Nhật Bản đã xóa bỏ được hoàn toàn cơ chế chính trị và xã hội của
thể chế Tướng Quân (Shogun), kiểm soát được đất nước, để rồi làm phát
triển các định chế chính trị mới, một hệ thống kinh tế mới, một trật tự
xã hội mới, cùng với một lực lượng quân sự mới, làm nòng cốt cho việc
bành trướng đế quốc sau này.
Các nhà lãnh đạo mới với óc thực tế, đã học hỏi từng phần về các tổ
chức chính trị tây phương, cẩn thận thử áp dụng chúng vào xã hội Nhật
Bản. Bộ Kinh Tế trở nên nòng cốt của chính quyền vì bộ này quyết định về
cách xử dụng các ngân khoản. Hệ thống Ngân Hàng được đặt ra, lúc đầu
theo tiêu chuẩn phân quyền như tại Hoa Kỳ, nhưng sau lại theo cách tập
quyền của nước Bỉ. Năm 1871, đồng Yen được ấn định là đơn vị tiền tệ
thống nhất. Các hệ thống Thuế Vụ cũng được đặt ra vào năm 1873. Thông
Tin và Kỹ Nghệ là hai ngành quan trọng. Đường dây điện tín được kéo dài
khắp nước và hệ thống Bưu Điện được thiết lập vào năm 1871. Năm sau, có
đường xe lửa nối dài thủ đô Tokyo và hải cảng Yokohama cách đó 19 dậm.
Chính quyền mới cũng cho xây dựng các kỹ nghệ “kiểu mẫu” tại nhiều nơi,
khai thác hầm mỏ, lập ra các xưởng vũ khí để không phải mua của nước
ngoài. Kỹ nghệ đóng tầu cũng được bắt đầu với tầm cỡ nhỏ đồng thời với
các kỹ nghệ se sợi và dệt lụa, kỹ nghệ làm gạch ngói và làm thủy tinh.
Một số kỹ nghệ nhẹ khác cũng bắt đầu hoạt động.
Các thập niên đầu của thời kỳ Minh Trị là thời gian học hỏi Tây
Phương, giống như ngàn năm về trước, người Nhật Bản đã học hỏi Văn Hóa
và Văn Minh Trung Hoa, nhưng lần này, tiến trình học tập nhanh hơn và có
hệ thống hơn. Vài nhà lãnh đạo của chính quyền mới đã từng đi nước
ngoài trước năm 1868, nay cũng ra khỏi nước để quan sát và học tập. Từ
năm 1871 tới năm 1873, chính lãnh tụ Iwakura đã dẫn một phái đoàn gồm
quá nửa các chính khách hàng đầu, thực hiện một chuyến công du, trước
tiên tới Hoa Kỳ, rồi sau qua một số nước phương Tây để thuyết phục họ
sửa đổi các hiệp ước bất công, đã áp đặt lên chính quyền Tokugawa.
Chuyến công du này tuy không thành công nhưng các chính khách Nhật Bản
vào thời đó đã thấy tận mắt, nghe tận tai các điều tiến bộ của nước
ngoài.
Người Nhật Bản đã không chọn hẳn một quốc gia nào làm khuôn mẫu, mà
học lấy những gì hay nhất của từng quốc gia. Các sinh viên, kể cả nữ
giới, đã được tuyển chọn cẩn thận căn cứ vào khả năng thực sự rồi được
gửi ra nước ngoài, bởi vì Thế Giới là một ngôi trường học bao la. Các du
học sinh được phân phối học những gì, học ở đâu, và học làm sao để sau
này có thể mang những điều hiểu biết, trở về quê hương, làm thay đổi đời
sống tại Nhật Bản. Những nơi du học đều rất hấp dẫn đối với tinh thần
ham học của người Nhật: nước Anh về Hải Quân và Hàng Hải Thương Thuyền,
nước Pháp về Luật Pháp và Tổ Chức Chính Quyền Địa Phương, nước Đức về
Quân Đội và Y Khoa, còn Hoa Kỳ được chú ý về cách khai thác Thương Mại.
Chính quyền mới lúc đầu cũng thuê mướn các chuyên viên tây phương với
lương bổng thật cao vì Nhật Bản không phải là nơi hấp dẫn để sinh sống.
Từ Hoa Kỳ, hàng trăm nhà truyền giáo đã tới Nhật Bản dạy tiếng Anh miễn
phí và cũng phụ trách các phạm vi khác. Các giáo sĩ Tin Lành này đã
dựng nên nhiều trường học, nhưng nhân viên của các cơ sở giáo dục cũng
như các cơ quan khác đã bị thay thế nhanh chóng bởi các sinh viên được
huấn luyện do chính các nhà truyền giáo hay bởi các sinh viên du học trở
về. Vì thế, tới cuối thế kỷ 19, không còn chuyên viên ngoại quốc nào
tại Nhật Bản, trừ phạm vi giảng dạy ngoại ngữ.
Nhà biên khảo Fukuzawa Yukichi
Các sách học và các công trình khảo cứu của Tây Phương cũng được
phiên dịch sang tiếng Nhật, đồng thời với các công trình biên khảo của
các nhà bác văn người Nhật giỏi về Tây Phương. Nhà biên khảo lừng lanh
nhất là Fukuzawa Yukichi, người đã từng qua phương Tây nhiều lần kể từ
năm 1860, đã viết rất nhiều sách, chẳng hạn như cuốn “Tình Trạng Tây
Phương” (Seiyo Jijo). Chính ông Yukichi cũng đã lập nên một cơ sở giáo
dục tư rất uy tín, để sau này trở thành Đại Học Keio lừng danh.
Các nhà lãnh đạo mới của nước Nhật cũng chú ý đến nền giáo dục phổ
thông. Bộ Giáo Dục được lập nên vào năm 1871 để quản trị các trường học
từ bậc Tiểu Học đến Đại Học. Trong thập niên 1870 và vào các năm đầu của
thập niên 1880, toàn thể nước Nhật Bản sôi động trong việc học hỏi các
nước Tây Phương và sự kiện này được gọi là “Khai Hóa Văn Minh” (Bummei
Kaika). Trong giai đoạn này, tinh thần “Võ Sĩ Đạo” của người Nhật Bản đã
được xử dụng đúng cách vào việc xây dựng một quốc gia tân tiến, ngang
hàng với các nước phương tây.
Phạm Văn Tuấn