Khách (đơn giản thế thôi)
Thành viên Dân Luận
Thành viên Dân Luận
Số người Việt Nam thương nhớ hoặc kính trọng ông Thiệu, tôi nghĩ
không nhiều. Số người tin tưởng ông, có lẽ còn ít hơn nữa. Nhưng, ông cố
Tổng thống thuở sinh thời, thuở đương quyền, đã có một câu nói chính
xác phải gọi là bất hủ, đáng được coi như là câu nói để đời của một con
người. Thể xác, và cả tâm hồn của một con người, buộc phải trở về cát
bụi. Tôi còn nhớ có ai đó cho rằng, tuyệt đại đa số con người buộc phải
chết hai lần, lần đầu là cái chết sinh lý, tắt thở, tim ngưng, mạch im.
Cái chết thứ hai là khi người cuối cùng trên cõi đời này còn nhớ tới
người đã chết ấy, chết đi. Ông Nguyễn Văn Thiệu, vô cùng may mắn, nằm
trong nhứng người không nhiều lắm trong cái lịch sử liên miên của nhân
loại, có lẽ còn sống lâu lắm sau khi chết. Bởi một câu nói đơn giản của
ông, sẽ còn được đám hậu thế nhắc đi nhắc lại mãi: Đừng tin những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm.
Tuổi của câu nói này chắc cũng gần nửa thế kỷ rồi, mà có vẻ vẫn như
còn tươi tắn mãi. Nếu không được tôn vinh như một chân lý, hẳn là nó
cũng đã tiếp cận mấp mé cái lằn ranh ấy. Nếu không thế, nó đã không
chứng tỏ sự trường sinh đến như vậy. Tôi tin rằng, đã có rất nhiều người
thoạt tiên khi được nghe câu này, hẳn sẽ phì cười, chế nhạo, hoặc khinh
bỉ, căm ghét người nói. Tôi có thể dẫn chứng ra rất nhiều người đã như
vậy, nhưng, hot nhất trong thời điểm này, có lẽ cần phải nhắc tới cái
tên một đảng viên (hay cựu đảng viên?) Lê Hiếu Đằng. Lý tưởng Cộng sản
của ông Đằng trong thời điểm ông Thiệu phát ngôn, có lẽ rực rỡ trong tâm
hồn ông Đằng còn hơn cả sự rực rỡ của quyền bính ông Thiệu có cùng thời
điểm.
Tôi không thể võ đoán để đoan chắc rằng trong suốt thời gian trăn trở để có thể nổ bùng ra bài viết “Suy nghĩ trong những ngày nằm bệnh”,
ông Đằng đã nghiền ngẫm không ít câu nói này của ông Thiệu. Nhưng, có
lẽ…nếu điều đó đã xảy ra, là một điều vô cùng hợp lẽ, hợp tình. Một cái
đầu Cộng sản, còn hơn nữa, một con tim Cộng sản, sẽ rất đau đớn để nhận
biết câu nói ấy là…chân lý. Không loại trừ, căn bệnh mà ông Đằng đang
đối đầu, có nhiều phần góp từ hệ quả của sự vỡ ra ấy. Nhà văn Duyên Anh
Vũ Mộng Long khi viết tiểu thuyết Sa Mạc Tuổi Trẻ đã có chua bốn câu thơ (có lẽ của ông, vì không thấy ghi tên tác giả) ở đầu truyện:
Anh đi làm cách mạng
Với bọn cò mồi hèn
Khi thiên đường đỗ vỡ
Anh còn gì đâu em
Với bọn cò mồi hèn
Khi thiên đường đỗ vỡ
Anh còn gì đâu em
Luật gia Đằng có lẽ không vướng phải bọn cò mồi nhãi nhép khi bắt đầu
đi làm cách mạng. Bởi lẽ, nếu đã thế, hẳn ông đã sáng mắt sáng lòng sớm
hơn rất nhiều. Có lẽ, những người đầu tiên dẫn dắt, rủ rê ông Đằng đi
làm cách mạng, cũng chỉ là những nạn nhân như ông cả thôi. Lòng tôi cảm
thấy đôi chút bùi ngùi khi liên tưởng tới những nỗi ray rứt, cắn xé
trong quá trình ông Đằng (và cả những bạn bè cùng thời cùng chí hướng
với ông) nhận ra rằng câu nói của ông Thiệu đúng đắn xiết bao. Thực may
mắn cho ông Đằng, và có thể của cả chúng ta, ông Đằng đã đủ dũng cảm để
công khai ra với xã hội điều vỡ ra ấy.
Tất nhiên, có thể như thế vẫn là chưa đủ với một số người. Trong
những phát ngôn mới nhất, ông Đằng vẫn chưa cho thấy một sự thức tỉnh
hoàn toàn về cái lý tưởng mà ông theo đuổi, phục vụ, cống hiến gần suốt
một đời người. Có thể đó là một chút mềm yếu, hoặc đó cũng có thể là một
kiểu chiến thuật lách của một người từng lăn lóc trong chốn quan trường
của chế độ này. Không ai dám chắc được. Nhưng, dù sao, thái độ và nội
dung những bài viết của ông Đằng đã nói lên một điều, ông đã chọn cho
mình một lập trường trong những ngày cuối đời mình, một kẻ đã kinh qua
mấy năm nhân sinh thất thập cổ lai hy.
Câu nói của ông Nguyễn Văn Thiệu, như một đúc kết về cách xử sự của
một người, nhất là người Việt Nam, đối với Cộng sản, con người Cộng sản,
guồng máy Cộng sản, chế độ Cộng sản. Một đúc kết ngắn gọn và rõ ràng
minh bạch. Không tù mù ú ớ, không cao đạo giảng truyền. Nó trong sáng
tới mức một kẻ vô học vẫn có thể nắm chắc được nội dung mà không cần
dông dài giải thích. Ngắn gọn và rành mạch như câu nói của ông Thiệu lầ
một điển hình của rất nhiều chân lý nằm trong các thành ngữ tục ngữ của
nền văn hóa dân gian xưa ở Việt Nam.
Tôi nghĩ rằng, câu nói này dần dà sẽ trở thành một thành ngữ, trở
thành một trong nhiều câu thành ngữ khác góp nên gia tài thành ngữ Việt
Nam. Giá trị của nó đã được chứng thực qua suốt thời gian nó được khai
sinh từ một người và lặp đi lặp lại vô số lần trên môi của vô số người
khác.
Trước biến cố quốc gia năm 1975, số lượng người Việt tin tưởng vào
câu nói của ông Thiệu chắc là không nhiều lắm. Một phần vì rất nhiều
người Việt lúc đó chưa chạm mặt CS bao giờ, một phần vì CS lúc đó mang
một cái mặt nạ hào nhoáng giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp. Rồi,
khi thực tế phũ phàng hiện ra, bất ngờ ngay cả đối với một bộ phận đông
đảo cán bộ, bộ đội và người dân miền Bắc, câu nói bất hủ trên ngày càng
trở nên như một chân lý, đanh thép, và bất khả phản bác.
Người Việt, như đại đa số người dân trong các nước hấp thụ nền văn
hóa Đông phương, rất quen thuộc với ý tưởng gói gọn trong câu thành ngữ
lời nói không đi đôi với việc làm. Khi một cá nhân hay một nhóm người
nào đó ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa, họ sẽ đánh
giá đó là bon không ra gì. Mức độ văn hoa bay bướm của ngôn từ càng cao
thì khi hành động càng tệ hại, xấu xa, mức lừa đảo càng bộc lộ. Người
Cộng sản, đảng Cộng sản, chế độ Cộng sản trải qua mấy chục năm làm chủ
đất nước này, dẫu vô tình hay cố ý, đã chứng tỏ cho người dân Việt Nam
rằng, câu ông Thiệu nói có một giá trị vượt trội cả giá trị của bản thân
ông Thiệu.
Người Cộng sản có khả năng chế tác ra những danh từ cao siêu hoa mỹ
đáng khâm phục. Nhất là, trong thời gian gọi là đổi mới tư duy của ông
Nguyễn Văn Linh. Thời điểm đó, những cải cách, những tháo gỡ trói buộc
như một biện pháp cứu nguy cho đảng CS khỏi sự sụp đổ theo sự sụp đổ
hàng loạt ở Đông Âu, đã được rao giảng như mục đích tối thượng là sự ấm
no hạnh phúc của nhân dân. Nền Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
cụm từ hoa mỹ khác để lấp liếm đi thực chất khập khiễng và trống rỗng
của nó. Rồi thêm một mớ rổn rảng nữa chẳng hạn như diễn biến hòa bình,
thế lực thù địch, âm mưu phá hoại, lòng tin chiến lược…xuất hiện như
những vệt son nụ phấn trang điểm lên một bộ mặt già nua rách nát. Thậm
chí đơn giản như những tàu thuyền tấn công ngư dân Việt Nam cũng được
gán cho một danh xưng vô cùng tế nhị là tàu lạ. Những ví dụ cụ thể cho
chuyện múa may ngôn từ của người Công sản là vô thiên lủng. Tham những,
ăn cắp được mềm hóa bằng từ tiêu cực, nghèo đói chuyển thành thiếu đói,
chỉ là những từ bất chợt nhón ra khỏi đầu, số lượng thực sự trên báo
chí, văn bản của Việt Nam thì…bao la hơn nhiều.
Khả năng múa may ngôn từ của những người Cộng sản đã thành danh trên
thế giới chứ không chỉ ở Việt Nam. Thế nhưng, khả năng này đã được người
Cộng sản Trung quốc và Việt Nam nâng lên mức thượng thừa do đặc điểm
văn hóa của người Tàu và người Việt. Trình độ quảng cáo của Cộng sản
Việt Nam và Cộng sản Trung quốc là siêu việt, do đó, câu nói của ông
Thiệu lại càng đặc biệt có giá trị ở hai quốc gia núi liền núi sông liền
sông này.