Phạm Chí Dũng,
Một “triển vọng” đang ngày càng rõ dần là bối cảnh xã
hội Việt Nam đang gần hoàn tất giai đoạn vận động thứ hai của nó, nếu
lấy mốc từ thời điểm mở cửa kinh tế những năm 1990.
Trước đó, giai đoạn vận hành đầu tiên kéo dài từ năm 1975 đến hậu khủng hoảng giá - lương - tiền.
Nhưng cho tới giờ, ở Việt Nam hầu như chưa hình thành một lực lượng
đối lập, chưa mang tính đối trọng đủ lớn đối với chính quyền để ít nhất
có thể tác động nhằm điều chỉnh một số chính sách và hoạt động thực hành
chính sách.
Những tiền đề đối trọng ở Việt Nam cho tới nay vẫn chỉ là phong trào
phản biện xã hội đa dạng và đa tầng, thể hiện chủ yếu qua ý kiến chứ
không phải bằng những hành động sâu xa hơn.
Ngoài nhóm “Kiến nghị 72” và vài nhóm blogger, đa phần còn lại là những cá nhân phân tán và hoạt động manh mún.
Tác động của hoạt động bất đồng chính kiến đối với chế độ chỉ có ý nghĩa như một xúc tác phụ.
Nếu không được tác động sâu sắc bởi hành động của lực lượng đối
trọng, hoặc không có một số tác động vừa thuyết phục vừa áp lực về chính
sách kinh tế, quân sự và chính trị, ngoại giao từ Mỹ và phương Tây, nền
chính trị Việt Nam sẽ do chính nội bộ trong lòng nó quyết định.
Mọi chuyện ở Việt Nam đang diễn ra theo một quy luật: vô cảm quan chức tỷ lệ thuận với tham nhũng và quyền lợi của nhóm lợi ích.
Thời gian suy thoái kinh tế từ đầu năm 2011 đến nay đã cho thấy một
hiện tượng xã hội rất đặc trưng: bất chấp sự phản ứng và tâm trạng phẫn
uất của nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều nhóm lợi ích và chủ nghĩa thân
hữu vẫn liên kết đầy se sắt, hòa quyện vào nhau với độ kết dính như thể
bám víu vào sự tồn tại cuối cùng.
"Những cú làm giá không tiền khoáng hậu của các
nhóm đầu cơ bất động sản, chứng khoán và vàng là biểu hiện của các
tác động vào chính sách"
Người ta có thể nhìn ra rất nhiều minh chứng cho thái độ bất chấp đó
từ những cú làm giá không tiền khoáng hậu của các nhóm đầu cơ bất động
sản, chứng khoán và vàng, kể cả những nhóm lợi ích có quyền lợi can dự
như điện lực và xăng dầu.
Song song với trào lưu lợi ích ấy, cũng có nhiều bằng chứng về hoạt
động chạy chính sách vì đặc quyền đặc lợi cho “tư sản đỏ”.
Tác động ở tầm mức mạnh mẽ nhất của người dân và xã hội đối với thể
chế cầm quyền ở Việt Nam nhiều khả năng sẽ được quyết định bằng việc có
hay không mối cộng hưởng của một cuộc khủng hoảng kinh tế ở chính đất
nước này.
Trong 2-3 năm nữa thôi, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam sẽ có thể
phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế với hậu quả chưa có tiền
lệ tính từ giai đoạn lạm phát tăng đến 600% vào những năm giá – lương –
tiền 1985-1986.
Những kịch bản kinh tế - chính trị
Kịch bản 1: Trong trường hợp
cuộc suy thoái kép hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới chưa nổ ra vào
những năm tới, và do vậy nền kinh tế Việt Nam vẫn có thể trì kéo tấm
thân băng hoại rệu rã của nó, tình thế vẫn chưa diễn ra một sự thay đổi
đủ lớn.
Những phản ứng tự phát của dân hiện không mang tính hệ thống và
hình thành các liên kết sâu rộng và thường thể hiện bằng biểu tình,
thậm chí bạo động cục bộ vẫn có thể bị chính quyền phong tỏa và đàn
áp.
Tiếng nói của các nhóm trí thức dân chủ và kể cả những nhóm chính trị
có mục tiêu đối kháng và triển khai bằng hành động sẽ chỉ đóng vai trò
xúc tác mà không thể hiện tính dẫn dắt cho một phong trào đối lập nhằm
thay đổi thể chế.
Kịch bản 2: Trong trường hợp xảy
ra suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới, những lô cốt cuối cùng
của nền kinh tế Việt Nam sẽ có thể bị tàn phá cùng nhiều hệ lụy trực
tiếp.
Vốn đang nằm trong xu thế không chỉ suy thoái gần như toàn diện nội
lực trong nước mà còn quá kém hiệu quả trong cơ chế xuất khẩu và chịu
ảnh hưởng không nhỏ từ làn sóng thoái vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam sẽ
nhanh chóng rơi vào tình thế bĩ cực không lối thoát. Một cuộc khủng
hoảng toàn diện đối với nền kinh tế Việt Nam cũng từ đó mà khởi phát.
Cuộc khủng hoảng có thể như thế còn cần được tính thêm một yếu tố cộng hưởng rất “láng giềng”: Trung Quốc.
Tiếng nói của các nhóm trí thức dân chủ và kể cả
những nhóm chính trị có mục tiêu đối kháng và triển khai bằng hành động
sẽ chỉ đóng vai trò xúc tác
Nếu hệ lụy khủng hoảng kinh tế thế giới được bắt nguồn từ khủng hoảng
của kinh tế Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chịu hiệu ứng kép: một do suy
thoái kinh tế giai đoạn cuối, một do động loạn từ Trung Quốc.
Trong cả hai yếu tố hiệu ứng tác động đó, xã hội Việt Nam đều có thể
rơi vào vòng bế tắc. Nền kinh tế vốn đã què quặt, cộng thêm nhân tố rối
loạn xã hội, sẽ khiến cho chính thể cầm quyền hết sức khó khăn trong
việc duy trì quyền lực của mình để kiểm soát xã hội.
Phản ứng của nông dân về đất đai, của công nhân về nạn thất nghiệp và
điều kiện làm việc, của tiểu thương về buôn bán, của công chức và giới
về hưu về an sinh xã hội… sẽ liên tiếp xảy ra với quy mô ngày càng rộng.
Phản ứng của người dân đối với nhân viên công quyền cũng sẽ diễn ra
dày đặc và mang tính tự phát với tính đối đầu nhiều hơn, ban đầu tản mạn
và tự phát, sau đó sẽ có xu hướng liên đới để hình thành những phong
trào, kể cả tổ chức phản kháng, của nông dân, công nhân, trí thức và
với cả một số tôn giáo như Công giáo, Phật giáo Hòa hảo thuần túy, Tin
Lành.
Kịch bản về không gian phản ứng và phản kháng sẽ có thể bắt nguồn từ
nông thôn miền Bắc với nông dân, thậm chí ngay tại Hà Nội với thành phần
trí thức, sau đó lan rộng ra các khu vực khác của đất nước như miền
Trung, Tây Nguyên và một số tỉnh ở miền Tây Nam Bộ.
Trong một số trường hợp phản ứng xã hội đặc biệt sâu sắc về nguyên nhân và tính chất, bạo động và có thể cả bạo loạn sẽ xảy ra.
Đó là chưa kể đến những hoạt động phản ứng riêng rẽ và có tổ chức
chặt chẽ hơn nhiều của các tôn giáo có xu hướng ly khai với nhà nước,
trong đó có một phần Công giáo, Tin lành, Phật giáo Việt Nam thống nhất
và Phật giáo Hòa hảo thuần túy.
Gần như trái ngược với Kịch bản 1, xác suất suy thoái kép hoặc khủng
hoảng của kinh tế Việt Nam trong Kịch bản 2 có thể lên đến ít nhất 70%
trong những năm tới. Và dĩ nhiên, sự đổi khác chính trị cũng phải liền
mạch và trực tiếp với các biến động kinh tế.
Lối thoát từ TPP?
Cuộc suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới, nếu xảy ra với xuất
phát điểm từ Trung Quốc, có thể rơi vào thời gian hai năm 2016-2017. Đó
cũng là thời gian chứng nghiệm những nỗ lực cuối cùng và mang tính
quyết định cho sự tồn tại của đảng Cộng sản Việt Nam.
Cú hội nhập TPP có thể đem lại một lối thoát cho kinh tế và cả chính trị Việt Nam
Nếu không tự thay đổi, và hơn nữa phải cải cách một cách gấp rút theo
hướng hạn chế quyền lợi của các nhóm lợi ích và nhóm thân hữu, đồng
thời gia tăng mối quan tâm thực tế cho các tầng lớp dân sinh, trong đó
đặc biệt là nông dân và công nhân, cũng như thực thi quyền tự do dân chủ
về ngôn luận, báo chí và tôn giáo một cách đúng nghĩa…, đảng cầm quyền
sẽ vấp phải một thử thách mà có thể xác quyết sự tồn vong của chính nó.
Một trong rất ít lối thoát để thoát khỏi vòng xoáy kinh tế - chính
trị là TPP – Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Thế nhưng,
điều quá rõ ràng là trong hiện tình, TPP chỉ có thể được sinh sôi ra từ
lòng thành chính trị, tương ứng với các điều kiện về dân chủ và nhân
quyền.
Cơ hội để “thoát Trung” cùng vô số nguy cơ về an ninh Biển Đông có thể được giải thoát bởi người Mỹ.
Nếu tận dụng cơ hội này, với điều kiện phải thể hiện được bản lĩnh
của mình trong mối giao hòa với tâm cảm của đại đa số người dân trong
nước và mục tiêu chiến lược địa chính trị của phương Tây, chính đảng cầm
quyền sẽ có được cơ hội tránh thoát một phần ảnh hưởng của Bắc Kinh,
trong khi nhận được sự hậu thuẫn của Washington và Cộng đồng châu Âu.
Cuộc khủng hoảng kinh tế tiềm tàng ở Việt Nam cũng do đó có thể sẽ được khuôn hẹp với những hậu quả không quá lớn.
Nếu thành công trong cơ chế “xoay trục” sang phương Tây, chính đảng
cầm quyền ở Việt Nam dù có phải “trả giá” bằng một chế độ cởi mở hơn về
dân chủ nhân quyền và chấp nhận sự tồn tại của một hình ảnh mang tính
trang trí về một xã hội dân sự manh nha tại đất nước này, kể cả việc
phải chấp nhận một lực lượng đối lập ôn hòa…, vẫn có thể duy trì được
quyền lực một đảng chi phối và quyền lợi của giới lãnh đạo thêm một thời
gian nào đó.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông Phạm Chí Dũng từ TP Hồ Chí Minh.