Hà Huy Sơn
Lịch sử đấu tranh của nhân loại không ngoài mục đích vì quyền con
người, quyền ấy phải ngày càng được đáp ứng đầy đủ và thỏa mãn ở mức cao
hơn. Để đạt được điều này thì chỉ có một phương cách không thể phủ nhận
là mỗi xã hội phải tự thiết lập nên một thể chế dân chủ cho chính mình.
Thể chế dân chủ là ở đó người dân có quyền tham gia quyết định mọi vấn
đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Mà cốt lõi của thể chế dân
chủ là một nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Đây là tiêu chí cơ bản
phân biệt giữa thể chế dân chủ và thể chế toàn trị. Nhưng các thể chế
toàn trị lại luôn tự nhận đây là đặc trưng của riêng họ, chỉ có điều ở
thể chế toàn trị không có nguyên lý vận hành một nhà nước “của dân, do
dân, vì dân”.
Nhà nước là cơ quan quyền lực của xã hội, là công cụ của người dân.
Do điều kiện vật chất thực tế nên người dân chưa thể thực hiện được
quyền “dân chủ trực tiếp” mà phải thông qua cơ chế “dân chủ đại diện”.
Dân chủ đại diện có nghĩa là người dân không thể trực tiếp phúc quyết
các dự luật, các vấn đề tổ chức, nhân sự của bộ máy nhà nước, các chính
sách đối nội, đối ngoại của quốc gia…
Cho dù ngay cả vấn đề ứng cử, bầu cử người đứng đầu nhà nước hoặc
biểu quyết hiến pháp hay các vấn đề trưng cầu ý dân khác nếu có cũng đều
chịu sự ảnh hưởng của các đảng phái chính trị trước, rồi sau đó mới là
người dân bỏ phiếu. Do vậy, các tổ chức chính trị, các đảng chính trị có
vai trò làm người đại diện ý chí chính trị của các công dân. Vai trò
đại diện, vai trò trung gian của các đảng chính trị là không thể thiếu
trong một xã hội công dân.
Một nhà nước dưới sự lãnh đạo của một đảng thì nhà nước đó không bao
giờ là nhà nước của mọi công dân hay nói cách khác nó không phải là một
nhà nước “của dân, do dân, vì dân” cả về nguyên lý lẫn thực tiễn. Nếu
nhà nước đó thực sự là nhà nước của toàn dân thì không có lý do gì không
nhất thể đảng với nhà nước, khi đó mọi công dân sẽ đều là đảng viên.
Nếu không thì rõ ràng nhà nước với đảng không phải là một, công dân với
đảng viên không phải là một. Nhất thể đảng với nhà nước để đảng phải
tuân theo quy định của pháp luật về ứng cử, bầu cử; phải chịu sự lựa
chọn và phế truất của công dân. Không có lý lẽ nào biện hộ, cho phép một
đảng được quyền làm ra luật để lãnh đạo nhà nước, mà quyền này chỉ duy
nhất là công dân và thuộc về công dân.
Xã hội loài người là một bộ phận của thế giới vật chất. Bản chất của
thế giới vật chất là đa dạng; vật chất tồn tại phát triển trong sự cân
bằng bởi đối trọng. Lịch sử phát triển của nhân loại là quá trình phát
triển của đa nguyên, của tự do, đa dạng hệ ý thức, đa dạng tư tưởng.
Thực tiễn đã chứng minh sự phát triển của các nhà nước tiến bộ phải dựa
trên căn bản của sự tồn tại quyền bình đẳng của các tổ chức chính trị,
các đảng phái chính trị.
Quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo đã được Liên Hợp Quốc công
nhận và đa số các quốc gia dù thật tâm hay không thật tâm cũng đều công
nhận. Tự do tôn giáo là quyền tự nhiên của con người. Vai trò của tôn
giáo, của các đảng chính trị, của nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ, gắn
bó, tác động lẫn nhau. Nhưng tôn giáo mà lấn sân sang hoạt động của các
đảng chính trị, lấn sân sang hoạt động nhà nước hay ngược lại đều dẫn
tới sự chia rẽ trong xã hội, gây nên hỗn loạn xã hội. Nếu nhà nước thao
túng tôn giáo thì tôn giáo sẽ mất vai trò ảnh hưởng trong xã hội. Ngược
lại, nếu tôn giáo thao túng được nhà nước thì nhà nước sẽ mất đi vai trò
công cộng của nó. Hoặc nhà nước ngăn cản các đảng chính trị, duy trì sự
độc tôn chính trị sẽ là cơ hội để tôn giáo thay thế vai trò của các
đảng phái chính trị, để rồi sinh ra mầm họa cho xã hội. Sự tồn tại của
một nhà nước của mọi công dân cùng với các đảng chính trị và tự do tôn
giáo là một quy luật tự nhiên của xã hội.
Hà Nội, ngày 27/08/2013
H.H.S.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN