Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

CON ĐƯỜNG THỨ BA



FB: Trần Minh Khôi

Một số bạn trẻ hỏi tôi về “dân chủ xã hội”, là các bạn hỏi về hai chuyện riêng biệt: “dân chủ xã hội” như một trào lưu của tư duy chính trị; và đảng chính trị theo trào lưu đó.

Thời đại của đảng chính trị dựa trên một học thuyết nhất định nào đó đã vĩnh viễn đi qua. Đảng chính trị hậu hiện đại, cũng như nguyên tổ của chúng hồi đầu thế kỷ 19, chỉ là tập hợp của một lực lượng chính trị nhằm giải quyết một số những vấn đề cụ thể nào đó của quyền lực mà thôi. Cương lĩnh, từ đó, chỉ là một công cụ hiệu triệu chứ tự nó không làm nên đảng. Chính nhân sự lãnh đạo, tư duy, tập quán và văn hóa chính trị của họ làm nên đảng. 

Các đảng chính trị, trừ những đảng đang nắm quyền lực toàn trị mà bất cứ một gợi ý thỏa hiệp nào về quyền lực toàn trị này đều có thể trở thành nguy cơ chôn vùi chúng - như Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, đều phải tuân thủ những nguyên tắc căn bản của một trật tự chuyển giao và tiếp nhận quyền lực - trật tự dân chủ. Các đảng chính trị đều phải tuân thủ một số quy ước về việc bảo đảm quyền tự do và quyền con người. Các đảng chính trị đều phải đưa ra hướng tiếp cận để giải quyết các vấn đề của công lý. Đây là những vấn đề thuộc hệ thống các giá trị phổ quát mà đảng chính trị phải thừa nhận. Trừ khi bạn gia nhập đảng chính trị để tranh chấp quyền lực, những vấn đề có tính giải pháp khác không phải là quan tâm đầu tiên; trong một cuộc bầu cứ tự do bạn có thể bỏ phiếu cho bất cứ giải pháp nào bạn muốn. 

Về “dân chủ xã hội” như một trào lưu của tư duy chính trị, tôi chỉ muốn cảnh báo các bạn về những lời tuyên bố cho rằng nó là một thứ “đỉnh cao trí tuệ” nào đó của tư duy nhân loại. Không có một hệ thống lý thuyết duy nhất nào có khả năng giải quyết tất cả những vấn đề của cuộc sống. Trong một không gian đa nguyên, không tồn tại một hệ thống lý thuyết nào duy nhất đúng. Hơn thế, "dân chủ xã hội” trên thực tế chỉ còn là một thứ nhãn hiệu, như bài viết sau đây đã chỉ ra. Nhân loại đi tìm những giá trị mới, những phương thức mới để giải quyết những vấn đề của cuộc sống và những kẻ đầu nậu quyền lực có khuynh hướng dán nhãn lên những giá trị mới này.   

Bài viết này (đăng trên Đàn Chim Việt, 2004) tóm lược một số luận điểm trong một tiểu luận của Seymour Martin Lipset, giáo sư Đại học George Mason, có tựa đề "The Americanization of the European Left" (Sự Mỹ hóa của chính trị cánh Tả Âu Châu) trong cuốn "Political Parties and Democracy" (Chính đảng và Dân chủ) do Larry Diamond và Richard Gunther biên soạn, Đại học John Hopkins xuất bản, 2001. 



***

Một trăm năm trước sự sụp đổ toàn diện của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, một vấn đề khác đã làm điên đầu các lý thuyết gia Mác-xít: "Tại sao không xuất hiện một đảng lao động hay một phong trào xã hội chủ nghĩa đáng kể nào ở Mỹ, quốc gia tư bản phát triển nhất thế giới?".

Friedrich Engels đã cố gắng một cách tuyệt vọng để trả lời câu hỏi này trong những năm cuối cùng của cuộc đời mình. Lenin và Trotsky cũng quan tâm sâu sắc về vấn đề này vì nó đặt ra những thách thức nền tảng cho luận cứ của chủ nghĩa duy vật lịch sử được chính Mác mô tả trong Tư Bản Luận: "quốc gia phát triển cho những quốc gia kém phát triển thấy hình ảnh tương lai của họ".

Cho đến trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các nhà lý luận cộng sản hàng đầu đều tin tưởng rằng những quốc gia tư bản công nghiệp sẽ dẫn dắt thế giới tới chủ nghĩa xã hội. August Bebel, lãnh tụ của đảng Dân Chủ Xã Hội Đức đã khẳng định: "Mỹ sẽ là quốc gia đầu tiên mở ra kỷ nguyên cộng hòa xã hội chủ nghĩa". Lúc đó là năm 1907. Đảng này đã là một đảng chính trị lớn mạnh trên chính trường Đức và cũng là đảng Mác-xít mạnh nhất thế giới. Trong khi đó, đảng Xã Hội Mỹ vẫn chưa có quá 2% cử tri nhưng thuộc một quốc gia có nền kinh tế tư bản phát triển.

Sự bất lực trong cố gắng phát triển phong trào xã hội chủ nghĩa ở Mỹ là một xấu hổ cho những lý thuyết gia Mác-xít, những người vẫn lập luận rằng kiến trúc thượng tầng, trong đó có cơ cấu chính trị, chỉ là biểu lộ của những cơ sở hạ tầng kinh tế và kỹ thuật. Họ hiểu rằng hiện tượng này là một bằng chứng sống về những mâu thuẫn của chủ nghĩa Mác. Nó chất vấn giá trị của hệ thống lý luận này. 

Tuy nhiên Mác đã không hoàn sai khi cho rằng những quốc gia kém phát triển có thể tìm thấy hình ảnh tương lai của mình ở những quốc gia phát triển. Từ những thập niên cuối của thế kỷ 19, Mỹ là quốc gia phát triển đó. Văn hóa chính trị Mỹ - như nó đã lớn mạnh và không như những nhà lý luận Mác-xít đã hy vọng - phản ảnh luận lý của một xã hội phát triển cao về kinh tế và kỹ thuật. Xã hội Mỹ là một xã hội tư bản đặc thù. Lý do khiến kinh tế Mỹ có hiệu suất cao nhất thế giới, theo Max Weber, là vì văn hóa Tin Lành của nước Mỹ chứa đựng sẵn những giá trị của chủ nghĩa tư bản. Văn hóa chi phối kinh tế. "Tinh thần tư bản" từ đó trở nên một động lực và là khuôn mẫu cho truyền thống chính trị cánh tả châu Âu.

Ở một mức độ nào đó, các đảng chính trị cánh tả ngày nay đều đã bác bỏ nền kinh tế tập trung và chấp nhận kinh tế thị trường tự do. Các đảng lao động và dân chủ xã hội trở nên đa nguyên cả về xã hội lẫn ý thức hệ. Quốc tế xã hội chủ nghĩa, một tổ chức toàn cầu của các đảng lao động và dân chủ xã hội, ngày nay trở thành nơi hội tụ của những đảng cấp tiến mà cương lĩnh của họ xác định "con đường thứ ba" giữa chủ nghĩa bảo thủ cực hữu và chủ nghĩa xã hội của Mác. Trên thực tế, đây là sự Mỹ hóa các đảng phái chính trị cánh tả châu Âu bị thống trị bởi các trường phái xã hội chủ nghĩa suốt trong hơn một thế kỷ qua. Sự "lột xác" của các đảng chính trị châu Âu phản ảnh sự chuyển tiếp về các cơ cấu kinh tế và giai cấp tương tự như đã xảy ra ở Mỹ. Cùng với sự phát triễn kinh tế, khoảng cách và sự mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội từ những di sản của chế độ quân chủ và phong kiến không còn là vấn đề của thực tiễn chính trị nữa. Công đoàn, cơ sở nền tảng của các đảng cánh tả, ngày càng suy yếu. Các đảng này ngày nay chú trọng nhiều hơn đến tầng lớp trung lưu hơn là giai cấp vô sản lao động ngày càng giảm về số lượng.

Những thay đổi trong mối quan hệ chính trị và giai cấp của xã hội công nghiệp phát triển có thể được phân tích trong khuôn khổ của một chủ nghĩa Mác-phi-chính-trị: chấp nhận luận điểm cho rằng hạ tầng cơ sở kinh tế và kỹ thuật chi phối thượng tầng kiến trúc văn hóa và chính trị, nhưng bác bỏ luận điểm cho rằng chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản. Alain Touraine, nhà xã hội học hàng đầu của Pháp và là một trí thức thiên tả, nhận xét: "Nếu tài sản là tiêu chuẩn để xác định thành phần giai cấp thống trị cũ thì kiến thức và trình độ giáo dục là tiêu chuẩn cho giai cấp thống trị mới". 

Dân chủ Xã hội Mới

Học thuyết "Con đường thứ ba" được thủ tướng Anh Tony Blair tóm lược như sau trong cuộc gặp gỡ giữa các nhà dân chủ xã hội châu Âu với Bill Clinton tại New York tháng 9-1998:

"Về kinh tế, chúng tôi không chủ trương chính sách buông thả (laissez-faire) cũng không chủ trương kinh tế tập trung. Vai trò của chính quyền là bảo đảm sự ổn vững của kinh tế vĩ mô, xây dựng một chính sách thuế và an sinh xã hội nhằm khuyến khích sự độc lập kinh tế cho người dân và các cơ sở doanh nghiệp tư nhân… Chúng tôi tự hào đã có được sự ủng hộ của giới lãnh đạo doanh nghiệp cũng như của công đoàn… Trong chính sách phúc lợi xã hội và nghề nghiệp, "Con đường thứ ba" có nghĩa là đổi mới chính sách trợ cấp thành phương tiện tái hội nhập lực lượng lao động nơi có thể được…". (Nói cách khác trợ cấp chỉ có mục đích giúp người thất nghiệp tìm lại công ăn việc làm).

Tony Blair và Đảng Lao động của ông đã thắng một cách ngoạn mục trong cuộc bầu cử năm 1997 sau khi đã thẳng thắn đoạn tuyệt với những giá trị lịch sử của tư tưởng quyền sở hữu công cộng của nó. Tony Blair đã nhiều lần khẳng định sự đồng thuận của ông với Bill Clinton về thị trường tự do và về một chính quyền nhẹ. Theo ông, kỷ nguyên của những chính quyền nặng nề đã qua. Đảng Lao động được tái cấu trúc theo một khuôn mẫu mới của một đảng phi xã hội chủ nghĩa, không còn cam kết liên hệ với công đoàn, một đảng "Lao Động Mới". Ông kêu gọi lãnh đạo công đoàn hợp tác với giới doanh nghiệp để đẩy mạnh khả năng cạnh tranh của kinh tế Anh Quốc. Đáng chú ý hơn nữa là lời khuyên của Tony Blair với các tổ chức lao động trong một bài báo trên tờ Người Lãnh Đạo Mới năm 1994, trong đó ông nhấn mạnh rằng vì quyền lợi của nó, công đoàn không nên chỉ ủng hộ cho một đảng chính trị nào. Peter Mendelson, lý thuyết gia của Blair, khẳng định rằng Đảng Lao động của ông ngày nay là đảng của tư bản thị trường. Tưởng cũng nên nhớ lại rằng đây là một đảng được sinh ra và nuôi dưỡng bởi công đoàn trong suốt lịch sử của nó.

Sự chuyển tiếp theo khuôn mẫu "con đường thứ ba" lặp đi lặp lại ở nhiều đảng chính trị cánh tả châu Âu khác. Đảng Dân chủ Xã hội Đức, đảng Mác-xít già nua nhất thế giới, đã từ bỏ chủ nghĩa Mác từ năm 1959 tại đại hội Bad Godesberg. Và trong suốt mấy thập niên qua, những nhà lãnh đạo dân chủ xã hội Đức - từ Helmut Schmidt đến Rudolph Scharping, Gerhard Schroder - theo đuổi một chính sách chú trọng đến thị trường tự do, giới hạn ảnh hưởng của chính quyền trong sinh hoạt kinh tế, giảm thuế, cải cách an sinh xã hội để khuyến khích trách nhiệm cá nhân. Trong thập niên 1980, chính quyền của đảng lao động Úc và Tân Tây Lan cũng bắt đầu chính sách giảm thuế, cởi trói những ràng buộc trong quản lý kinh tế, và tư hữu hóa, hoặc giải thể, nhiều lãnh vực của công ty quốc doanh. Thủ tướng Tân Tây Lan, ông David Lange, đã có lần phát biểu : "Những người dân chủ xã hội phải chấp nhận thức tiễn không công bằng về kinh tế vì nó là động lực để thúc đẩy sự phát triển…". Đảng Dân chủ Xã hội Thụy Điển cũng đã lật ngược định hướng gia tăng tiền lương, tăng thuế thu nhập, hệ thống phúc lợi do nhà nước bảo trợ để bắt đầu thực hiện những chính sách tư hữu hóa. Ở Tây Ban Nha, Thủ tướng Felipe González đã lột xác Đảng Xã hội của ông ta - một đảng Mác-xít từ sau thời Franco - trở thành một ủng hộ viên của chính sách tư hữu hóa, kinh tế thị trường, và NATO. 

Có lẽ Pháp là một ngoại lệ. Nếu tinh thần chống lại nhà nước độc tôn là tinh thần phổ quát của văn hóa chính trị Mỹ thì việc tôn vinh quyền lực của nhà nước là điểm then chốt trong văn hóa chính trị Pháp, cánh tả lẫn cánh hữu. Truyền thống này bắt nguồn từ thời quân chủ, cách mạng, và đế quốc. Người ta không ngạc nhiên khi đảng Xã Hội Pháp đã thắng trong cuộc bầu cử 1997 với những hứa hẹn bảo vệ hệ thống phúc lợi xã hội đang khánh tận và một chính sách tạo công ăn việc làm do nhà nước bảo trợ. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn trên báo Le Nouvel Observateur, Lionel Jospin, lãnh tụ Đảng Xã hội, cho biết ông ủng hộ chính sách kinh tế tản quyền và khuyến khích sáng kiến cá nhân. Ông nhấn mạnh đến việc Pháp cần phải mô phỏng nền kinh tế Mỹ. Theo tờ Kinh Tế, Jospin cho rằng Pháp "có thể học được nhiều điều từ sự năng động của nền kinh tế Mỹ, từ sức sống của sáng tạo và nghiên cứu, từ tinh thần cạnh tranh và khả năng thay đổi…".

Cùng lúc, các quốc gia châu Âu đạt đến một mức độ thịnh vượng mới, nhận ra rằng họ càng giống Mỹ hơn với một xã hội mà lằn ranh giai cấp mờ nhạt. Và theo ngôn ngữ của Mác, Mỹ đã cho họ thấy hình ảnh tương lai của họ. Ngày nay, các đảng cấp tiến phi xã hội chủ nghĩa châu Âu đang cố gắng để biến chủ nghĩa tư bản trở nên nhân bản hơn, hữu hiệu hơn. 

Bình cũ, rượu mới

Tất cả những biến chuyển trên không nhằm để gợi ý rằng lằn ranh chính trị của các nền dân chủ hiện đại, bắt nguồn từ Cách Mạng Pháp trên băng tần chính trị tả và hữu, đã biến mất. Dân chủ hay cộng hòa, dân chủ xã hội hay bảo thủ vẫn còn là những lựa chọn của thùng phiếu, mặc dù những nền tảng ý thức hệ chính thống của chúng đã thay đổi. Sự phân chia theo tầng lớp xã hội không còn là tương quan chính đối với vị trí tả hay hữu của các đảng phái trên băng tần chính trị quốc gia. Những vấn đề như đạo đức, phá thai, giá trị gia đình, dân quyền, bình đẳng giới tính, đa văn hóa, di dân, chính sách ngoại giao, v.v. đã đẩy những cá nhân và tổ chức chính trị vào những lộ trình khác nhau, độc lập với vị trí kinh tế xã hội của họ. Phần lớn những vấn đề này thuộc phạm trù xã hội, tôn giáo và giáo dục chứ không phải chính trị.


Ý nghĩa của tả và hữu đang thay đổi. Các đảng cánh tả, như đã thấy, mặc dù vẫn tự nhận là dân chủ xã hội hay xã hội chủ nghĩa nhưng càng lúc càng giống khuynh hướng chính trị cấp tiến Mỹ: cổ xúy những vấn đề như môi trường, quyền phụ nữ và người đồng tính luyến ái, quyền của thiểu số, tự do văn hóa, cũng như giới hạn quyền của nhà nước. Các đảng cánh hữu cũng di chuyển sang trung tâm của băng tần chính trị, nhấn mạnh đến tự do và trách nhiệm cá nhân. Với một sự phân chia đa chiều như thế, ngày nay rất khó để có thể vẽ một lằn ranh chính trị giữa các trường phái tả và hữu. Và chắc chắn, tả-hữu không còn được định nghĩa trong không gian của "chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa tư bản" như trước nữa.

Lưu trữ

Tự điển



Tự điển Việt Nam
đã được bổ sung những ý nghĩa "chính thức"