Theo Blog Bà Đầm Xoè
(Thư gửi nhà văn Nguyễn Hiếu)
Nguyễn Hoàng Đức
Thân mến chào nhà văn Nguyễn Hiếu. Chưa
đầy 12 giờ sau khi tôi viết bài đối thoại với anh về làng thơ Hương chèm
của anh, đã nhận được một bài rất dầy dặn, nhiệt huyết, xác đáng, chú
mục, phơi mở tâm can, “xì van” ẩn ức, và khải hoàn ca diễn giải về nền
văn chương bị o bế trong tuyên huấn quá lâu của nước nhà. Tôi rất chia
sẻ và đồng cảm với anh nhiều điểm trong bài “Xin đừng trách các nhà văn ta”, nhưng cũng xin muốn bày tỏ rằng: đó là sự chia sẻ ở lượng tính nhiều hơn ở phẩm tính.
Hình như văn hào Voltaire có nói “Tác phẩm là quyền lực”.
Điều đó có nghĩa gì? Người Việt bảo: “Bên hông túi bạc kè kè, nói quấy
nói quá người nghe rầm rầm”. Rồi cũng có câu “mạnh vì gạo bạo vì tiền”.
Người Trung Quốc thậm chí còn nói “Dĩ thực vi thiên” – dân lấy gạo làm
trời. Nghĩa là tiền bạc ở đời là quyền lực, ngay cả trong nền chính trị
quả đầu quí tộc của Hy Lạp cũng coi những người có tiền nhiều được xếp
hàng đầu tiên ở ngưỡng cửa chính quyền. Nông dân có quyền lực gì? Họ có
gạo là “dĩ thực vi thiên” đó, và cũng được xếp vào hệ quyền lực “nhất sĩ
nhì nông/hết gạo chạy rông/ nhất nông nhì sĩ”. Và trong lý thuyết dân
chủ xưa kia, cũng như cách mạng vô sản mới đây, nông dân là một lực
lượng được mời gọi, khuyến dụ, cũng như tôn vinh lên hàng đầu. Đặc biệt ở
Trung Quốc đã bắt các giáo sư về quê nghe nông dân giảng bài. Còn ở
Việt Nam thì “trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ”.
Còn nhà văn là ai? Là tầng lớp trung lưu
trí thức. Theo lý thuyết cơ bản thì giai cấp trung lưu là bản lề của xã
hội, đó mới chính là lực lượng tạo ra những chuyển đổi xã hội mang tính ý
thức. Đây cũng là phát hiện mới mẻ nhất trong lịch sử hiện đại, những
kỳ tích xã hội như máy vi tính, mạng internet, các công ty xuyên quốc
gia ra đời không phải do các nguyên thủ hay hàm bộ trưởng mà do giai cấp
trung lưu (có một bảng dữ liệu chỉ rõ tên tuổi về việc này). Vậy nhà
văn có sức mạnh gì chẳng lẽ lại thua nông dân? Cái đầu lại thua chân tay
sao? Không, nhà văn có sức mạnh khi tác phẩm của họ được hiện diện. Năm
2009, nhà thơ Bùi Minh Quốc có kiến nghị rằng: nông dân còn được đem
sản phẩm của mình ra chợ bán, tại sao những tác phẩm của chúng tôi không
được chào đời. Đề nghị báo Văn Nghệ cho chúng tôi thầu một trang, chịu
trách nhiệm và trả chi phí “sân bãi”, để đọ xem văn nghệ thoát ly mậu
dịch có bằng văn nghệ co cụm mậu dịch không?
Một khi nhà văn không có tác phẩm ra đời
thì còn thua một anh nông dân có sản phẩm. Giờ chúng ta hãy bàn đến
những yếu kém không chối cãi nổi của văn học Việt Nam.
2- Ngay cả đến Xuân Diệu, một người học
vấn bậc nhất của văn học quốc doanh, vậy mà ông lại nói “ca ca cứt cứt”.
Ông tuy học vấn uyên thâm, nhưng cả đời hời hợt mải chơi vui vầy ngâm
vịnh nên không viết được trường ca, đã không viết được thì thôi “biết
thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe” lại giở võ ca-cứt ra.
Điều này là vô cùng tệ hại, mới đây một nhà thơ khi nói về thơ ca đã dẫn
lời của ông ra như bảo bối. Than ôi, một nền thơ, một tư duy thơ bỏ qua
mọi kiến thức của loài người, đem cứt ra làm bảo bối để đo mỹ học thì
thật không còn gì để nói. Chúng ta thử đặt câu hỏi, có nền chính trị văn
nghệ nào hà khắc đến mức bắt Xuân Diệu phải lấy cứt làm thước đo đâu.
Rồi đến ông chủ tịch văn nghệ của tỉnh kia cũng tưởng thế là hay, đòi
ném cứt liên tục vào thơ. Rồi đến cả Hội Nhà Văn cũng mất chuẩn, trao
luôn giải nhất cho thơ cứt. Khi Việt Nam kỷ niệm 300 năm thành phố Sài
Gòn, có phát động sáng tác giao hưởng. Giao hưởng là nhạc khí, không có
lời, không sợ phạm húy, nhưng có ai sáng tác ra hồn không? Tại sao? Vì
người ta quen nghê nga những bài ca ngắn tũn làm gì có trường hơi dài
sức để sáng tác giao hưởng.
3- Người Việt ở hải ngoại nào đâu có bị o
bế gì, học vấn khá cao, nhưng hầu hết chỉ làm ra thứ thơ sạch vi khuẩn,
chứ không có độ rung mãnh liệt nào. Tại sao? Đó không phải là thể tạng,
là nhiệt huyết sao?!
Sơ sơ thế, để thấy, cái tạng của người
Việt yếu đuối và bé nhỏ. Tất nhiên điều này cũng không đáng xấu hổ lắm
vì người Trung Quốc đông gấp hai mươi lần Việt Nam cũng vẫn còn nhỏ bé
lắm. Họ mới có 2 giải Nobel văn chương, so với dân số thì có bõ bèn gì.
Nhưng tại sao người Việt và người Trung lại yếu ớt vậy. Các nguyên thủ
phương tây chính thức nói rằng: Trung Quốc không bao giờ trở thành cường
quốc vì họ không có khả năng sản sinh tư tưởng.
Văn học Việt yếu cái gì? Yếu ở kịch tính!
Kịch tính là nhân lõi của văn học, điều đó hiển nhiên như các loại phim
truyện chỉ hay khi có kịch tính. Muốn có kịch tính thì phải có thiện –
ác, có nhân vật tốt xấu, chính diện và phản diện, tức có nhị nguyên. Từ
xác định Có – Không, hay phép “khử tam” thì con người bắt đầu mới có tư
duy khoa học. Nhưng mới đây tôi đọc một nhà văn khá trí tuệ của lớp kế
cận nói rằng: nhị nguyên là sai, giờ người ta phát hiện ra tư duy nhiều
mảnh để trả lời mọi câu hỏi của cuộc sống. Nói thế là tôn vinh tư duy à
uôm. Trong các hội nghị quốc tế, các ý kiến của châu Á ít khi được coi
trọng, vì lúc nào nó cũng nước đôi, nhì nhằng, đòi một giải pháp toàn
thể. Một chiếc máy bay không thể cùng lúc bay hai hướng, chỉ có con quay
là xoay tít nhiều hướng thôi. Nhưng con quay chỉ là thứ đứng yên tại
chỗ.
Từ đây, thấy rõ, người Việt dù có học
nhiều, nhưng tư duy luôn luôn yếu, họ rất khó có khả năng tranh biện sắc
xảo, lập luận vững chắc. Chính đây là lý do tư duy thơ vần vèo ngả ngớn
vui vầy mọc lên như nấm dại. Chúng ta nên chắc chắn với nhau, để đào
tạo tư duy con người, thì lý luận là cái cao nhất, chắc chắn nhất để đạt
tới chiều cao.
Văn học Âu Mỹ phát triển cao vì chủ yếu
nó được dựa trên văn minh nhân bản của Ki-tô giáo. Nhưng thử nhìn một
nhà văn Việt, tôn giáo không, nếu vậy thì thần học cũng không, rồi mỹ
học lý tưởng liệu có xuất hiện, triết học thì mấy ai học.
Trong cuốn sổ tay của nhà thơ Nguyễn Đình
Thi, khi ghi chép về các nhà văn và tác phẩm chủ yếu ông chỉ xoay
quanh: Bố cục yếu. Thế nghĩa là gì? Rõ ràng đó là sự thiếu hụt của lý
trí đóng vai trò kiến trúc sư kiến tạo. Trong cuộc sống nói chuyện à uôm
không bao giờ rèn luyện lý trí, thử hỏi làm sao lý trí có thể đóng vai
kiến trúc sư. Giao hưởng không sáng tạo được cũng chính bởi không có cái
khung của kiến trúc dẫn dắt đi.
Giờ nói đến những điều vĩ mô khác, nào tự
do, bình đẳng, bác ái. Các nhà văn của ta đã ngửa cổ ngước nhìn thường
xuyên như một lý tưởng nhân bản chưa. Tôi xem phim các nước xung quanh
ta, dù chỉ là phim truyền hình, tôi thấy người ta tốt bụng hơn Việt Nam
nhiều lắm. Tại sao? Vì họ có tôn giáo chứ không chăm phá đình chùa như
ta. Hồi những năm 1980, các công nhân Việt Nam sang làm thuê ở I –rắc,
người ta hỏi “bạn theo tôn giáo nào?” Nhiều người Việt trả lời “không!”
Họ liền bỏ đi và bảo với nhau “không nên gần phường vô đạo”.
Chúng ta có thể rút gọn rằng: nhà văn
Việt tri thức còn bập bõm, lý trí chưa rèn luyện, tiểu thuyết chưa nói
hay bố cục luôn là vấn đề, tôn giáo không, thần học xa như chân trời vì
tôn giáo không có làm sao có thần học, triết học cũng xa vời vì tôn giáo
là cha đẻ của triết học. Nhưng một điều quan trọng nhất là: chúng ta
chưa đi thì không bao giờ đến. Muốn trở thành kiến trúc sư có bố cục thì
trước hết người Việt không chỉ nhà văn mà mọi người, đặc biệt là mấy
anh nhà thơ câu vần tí tẹo nên rèn luyện lý trí cho mình. Người phương
tây ví lý trí là chiếc thang, nó cũng chính là để leo lên đỉnh cao tiến
bộ. Còn nếu không có lý trí với vài mẩu vần vèo chúng ta mãi mãi chỉ bò
dưới gốc cây.
Mấy lời trao đổi sơ qua với nhà văn Nguyễn Hiếu, bạn viết và bạn đọc. Xin cám ơn nhiều!
NHĐ 14/05/2013